lịch sử việt nam
Trúc-Lâm Yên-Tử (07-09-2009) - Chuyên-mục Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam được thành lập nhằm vinh-danh những anh-hùng, anh-thư đã dầy ân đức đối với đất nước và dân-tộc Việt-Nam qua nhiều thời đại.
***
Thần Việt Điện_Thập Đại Thần Tướng Việt Nam
- thời cận đại -
Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần
Sinh ra là Tướng chết đi thành thần
Thế, Ân, Thanh, Trí, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn
Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo, Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính 2011, 2013. (trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29
Quân-Đoàn IV Quân Khu IV Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa
9/ Thần tướng Nguyễn-Khoa-Nam (1927 - 1975)
Thần tướng Nguyễn-Khoa-Nam
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam : Những Phút Tâm Tình Cuối Cùng
...
Tôi viết lên những dòng này vào giữa đêm khuya, trong phòng vắng. Đến đây, tôi ngừng viết, đọc lại những gì ghi trên giấy, nước mắt bỗng tuôn tràn trên gò má. Tôi khóc cho ông, người thầy của tôi và cho những người nằm xuống. Nhưng tôi cũng khóc cho tôi, cho những người thân, cho những bạn bè đã hứng chịu những hệ lụy bi đát sau ngày tàn cuộc chiến. Tôi khóc vì cảm động trước đắng cay mà đồng bào tôi đang sống trong màn đêm bạo tàn ở ngay chính trên quê hương của mình.
Tôi viết những dòng này, trước ngày húy nhật thứ 30 của ông để dâng lên ông lòng kính trọng. Tôi không ca tụng ông vì danh ông lớn quá, ca tụng cũng bằng thừa. Tôi chỉ ghi lại vài mẩu chuyện rất người của một con người bình thường, nhưng đã vươn lên cao, nếu không nói là vĩ đại.
(tác giả Lê Chu, Arlington – Texas)
Lá Thư gửi anh NAM
Nguyễn Văn Hai
Giáo Sư Tiến Sĩ, nguyên Phó Viện Trưởng kiêm Khoa Trưởng Đại Học Khoa Học, Viện Đại Học Huế
Anh Nam kính mến,
Chúng tôi vừa coi xong cuốn video "Chiến Tranh và Hòa Bình" của hãng Asia. Một đoạn video gây chúng tôi nhiều xúc động nhất là buổi phỏng vấn anh Phước về cái chết đầy khí tiết của Anh, một vị Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vào giờ phút buồn thảm nhất của lịch sử đất nước. Một chi tiết đến hôm nay chúng tôi mới biết và làm tôi ngạc nhiên đến sửng sốt là Anh thọ trì thần chú Thủ Lăng Nghiêm đã từ lâu. Sửng sốt là vì thật không ngờ từ lâu Anh đã suy ngẫm nhiều về chân tướng cuộc đời, phát tâm tin Phật Pháp thâm diệu, sống ung dung thanh thản giữa một thế giới lắm tai ách và khổ đau.
Thực ra, Anh là người đã rất nhiều lần gây cho tôi những giây phút bàng hoàng sửng sốt. Duyên nghiệp cho tôi được cái vinh dự cùng Anh học một lớp và ở chung một ký-túc-xá suốt năm năm ở trường Trung Học Khải Định. Lúc bắt tay Anh lần đầu khi Anh sắp leo lên chiếc giường ngủ đặt sát cạnh giường tôi đêm trước ngày khai giảng niên khóa 1940 - 4, tôi có ngay cảm tưởng từ hôm nay tôi may mắn có thêm một bạn đồng song hiền lành, chăm học, dáng ngoài đúng điệu một thư sinh. Nhưng tôi để ý Anh có một nụ cười bí ẩn, mãi đến nay tôi vẫn còn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Thường Anh ít nói mà chỉ cười, cười kiểu "ngậm kim". Có khi tôi tưởng Anh cười nhạo báng, có khi tôi tưởng Anh cười đồng ý, và có khi tôi cho là Anh cười để tránh nói ra những cảm nghĩ làm mất lòng người khác.
Bây giờ tôi kể lại để Anh nhớ một hai câu chuyện hồi còn ở trường Anh đã gây cho tôi bàng hoàng sửng sốt. Thường ngày vào giờ Vẽ, tôi ngồi gần Anh trong phòng Họa, ở sát ngay Nhà Chơi của Trường. Cả lớp đều biết Anh có tài hội họa, vẽ truyền thần và phong cảnh. Kể ra, vốn tự biết mình vụng về không vẽ nên thân, tôi tìm ngồi gần Anh là cốt học mót nơi Anh cách vẽ, chứ thầy Tôn Thất Đào đâu có đủ thời giờ trong một tiếng đồng hồ đi chăm sóc từng trò một trong một lớp có đến 50 tên. Một năm nọ, vào kỳ thi lục cá nguyệt, thầy Đào ra đề tài cho vẽ tùy ý một cảnh hoạt động ngoài trời. Thế là tôi lúng ta lúng túng, hết gôm rồi lại xóa, làm mòn gần hết viên tẩy, thay tờ giấy vẽ này sang tờ giấy vẽ khác, rốt cuộc năm mươi phút trôi qua mà chẳng vẽ ra cái cảnh nào nên hồn cả. Anh thương tình, biết tôi tự ái, không bao giờ mở miệng cầu viện, mới hỏi: Cậu ưng mình vẽ hộ cho cậu không? Không đắn đo suy nghĩ, tôi cảm ơn lòng tốt của Anh và đưa cho Anh một tờ giấy vẽ còn nguyên. Thế là chỉ trong năm hay bảy phút gì đó, Anh đã họa xong giùm tôi một hoạt cảnh "Đá banh." Tôi mừng thầm có cứu tinh phò trợ chuyến này chắc tai qua nạn khỏi. Ngờ đâu, khi nhìn vào tờ giấy vẽ trước khi đem lên nạp thời trời đất ơi! Anh đã vẽ một thằng bé chổng mông rách quần trên sân cỏ!!! Vì đã hết giờ và không còn cách nào hơn, tôi đành đem bức họa "quỷ khóc thần sầu" ấy lên nạp. Tôi nghĩ lại tất cả là lỗi tại tôi, đã có ý gian thì phải cúi đầu mà lãnh đủ quả phạt. Buồn cười là câu chuyện không chấm dứt như dự tưởng. Sau hơn ba năm dạy tôi môn Vẽ, thầy Đào thừa hiểu tôi không bao giờ đủ tài năng sáng tác ra một bức họa để đời như vậy. Thầy không cho tôi là người có tội nên phê vào tờ giấy vẽ đề tên tôi điểm 19 trên 20. Còn điểm bức họa của Anh thì chỉ được 18 trên 20 mà thôi. Tôi được một trận cười ra nước mắt, nhưng Anh thì đón nhận bài của mình vẫn với cái nụ cười "ngậm kim" muôn thuở!
Sau đây là một câu chuyện khác, nhưng lần này xin nhường cho Phan Thụy Dung, một người bạn học khác của Anh kể hay hơn tôi nhiều: Một hôm trong lớp học xuất hiện một giáo sư Việt Nam, thầy B. H., dạy tiếng Nhật vừa được ghi thêm vào chương trình trung học. Học trò bên ngoài ngoan ngoãn học ngoại ngữ mới, thật ra bên trong chẳng mấy người hăng hái sốt sắng vì mặc cảm hết tiếng Tây đến tiếng Nhật đang đè nặng. Tất nhiên đám học trò có phản ứng và sự việc xảy ra đã làm cả lớp thích thú:
Hôm đó thầy B.H. giảng cách dùng tiếng Nhật khi nói về "đàn ông" và "đàn bà," đại khái nói về "đàn ông" thì dùng chữ "Watakusi," về "đàn bà" thì dùng chữ "Watasi." Một anh bạn đứng dậy giơ tay nói: Thưa thầy, như rứa là "đàn bà" thì không có "ku" phải không? Cả lớp được một dịp cười hả dạ. Tui không bao giờ quên được anh bạn đó, người đã dùng óc hài hước để hóa giải mặc cảm nói trên. Người học sinh có óc hài hước đó lại là một con người tài ba, sau này đã thành công trong đời, đã lên đến đỉnh cao trong binh nghiệp và khi không giữ được nước, đã noi gương trung liệt của Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản, v.v... làm rạng danh một dòng họ lớn ở đất Thần Kinh: họ Nguyễn Khoa. (Trích trong Tiếng Sông Hương "Kỷ Niệm 100 Năm Trường Quốc Học").
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29
Sự Tích Thập Đại Thần Tướng Việt Nam Thời Cận Đại:
1/ Thần tướng Trình Minh Thế (1922 - 1955)
2/ Thần tướng Trương Quang Ân và phu nhân 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 (1932 - 1968; 1931-1968)
3/ Thần tướng Nguyễn Viết Thanh 1, 2, 3 (1930 - 1971)
4/ Thần tướng Đỗ Cao Trí 1, 2, 3, 4, 5 (1929 - 1971)
5/ Thần tướng Phạm Văn Phú 1, 2, 3, 4, 5 (1929 - 1975)
6/ Thần tướng Lê Nguyên Vỹ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 (1933 - 1975)
7/ Thần tướng Trần Văn Hai 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 (1929 - 1975)
8/ Thần tướng Lê Văn Hưng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32 (1933 - 1975)
9/ Thần tướng Nguyễn Khoa Nam 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29 (1927 - 1975)
10/ Thần Tướng Hồ-ngọc-Cẩn
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử