lịch sử việt nam
Trúc-Lâm Yên-Tử (07-09-2009) - Chuyên-mục Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam được thành lập nhằm vinh-danh những anh-hùng, anh-thư đã dầy ân đức đối với đất nước và dân-tộc Việt-Nam qua nhiều thời đại.
***
Thần Việt Điện_Thập Đại Thần Tướng Việt Nam
- thời cận đại -
Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần
Sinh ra là Tướng chết đi thành thần
Thế, Ân, Thanh, Trí, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn
Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo, Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính 2011, 2013. (trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29
Quân-Đoàn IV Quân Khu IV Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa
9/ Thần tướng Nguyễn-Khoa-Nam (1927 - 1975)
Thần tướng Nguyễn-Khoa-Nam
Người Anh Trong Khóa
Lê Chu, Trung Tá Truyền Tin QLVNCH, bạn cùng khóa với Tướng Nguyễn Khoa Nam
Đã 26 năm trôi qua kể từ ngày Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ giã cõi trần. Thế nhưng, mỗi khi nhớ lại những năm tháng phục vụ trong Quân Đội dưới quyền chỉ huy của ông, tôi có cảm tưởng những sự việc đó dường như mới xẩy ra ngày nào, rất gần đây thôi. Kỷ niệm về khoảng thời gian sống cạnh ông vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi.
Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày - 1/4/1953 - cùng một nơi, Huế - theo lệnh động viên, thuộc tài nguyên Sĩ Quan Trừ Bị Khóa 3 Thủ Đức. Khi trình diện Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu, tôi đã gặp ông và một số các anh khác mà tôi đã biết từ trước như các anh Lê Liêm, Phạm Đình Chi, Võ Sum, Lê Cao Phan, Trần In, Phan Cảnh Tuân, Lê Quang Thị v.v... Tôi xem các anh ấy như những người anh - lúc ấy, tôi là người trẻ tuổi nhất - 22 tuổi.
Vào những năm 1950 đến 52, thỉnh thoảng tôi có gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở Huế. Lúc nào ông cũng ăn mặc gọn ghẽ nhưng rất chỉnh tề, dáng điệu khoan thai, lời ăn tiếng nói dịu dàng, từ tốn, hòa nhã. Trông ông, tôi không thấy nét khắc khổ của các bậc tu hành, cũng không thấy nét trầm tư của một triết gia. Ông vui vẻ nhưng không bộc lộ sự tinh nghịch của tuổi trẻ như chúng tôi.
Từ Huế, đoàn chúng tôi trên 100 người, đáp tàu hỏa vào Đà Nẵng. Chúng tôi dừng chân ở đây hai hôm để chờ tàu Gascogne cập bến Đà Nẵng đưa chúng tôi vào Sài Gòn. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc bấy giờ là ông Lê Tá đã tiếp đoàn chúng tôi một cách chân tình và niềm nở.
Khi chúng tôi nhập trường, ở đấy đã có mặt các anh miền Nam. Và hai hôm sau, các anh từ miền Bắc, đông nhất trong khóa, đáp tàu Saint Michel từ Hải Phòng mới vào đến Sài Gòn. Chúng tôi được phân phối đi các đại đội. Khóa 3 Thủ Đức chia làm 5 đại đội, gồm 21 trung đội. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc Đại Đội 4 còn tôi ở Đại Đội 5, học ngành Truyền Tin.
Tuy khác đội, nhưng sau những giờ luyện tập ở bãi tập và học lý thuyết, tôi vẫn thường gặp ông ở nhà ăn và câu-lạc-bộ nhà trường, chuyện trò vui vẻ. Cuối tuần, chúng tôi được nghỉ học, có xe đưa rước về Sài Gòn thăm thân nhân. Tôi có vài dịp đi dạo phố Sài Gòn, xem chiếu bóng và đi ăn nhà hàng với ông. Qua giai đoạn một, xong phần huấn luyện tổng quát, chúng tôi bắt đầu vào giai đoạn hai, học vào từng ngành. Tuy không được rảnh rỗi như trước, nhưng tôi vẫn còn gặp ông. Mãn khóa, tôi ở lại trường tiếp tục học phần chuyên môn. Ông chọn binh chủng Nhảy Dù. Trước ngày mãn khóa, mỗi khi gặp nhau, anh em chúng tôi thường trao đổi ý kiến, xem nên chọn nơi nào. Những lúc ấy, ông không hề tiết lộ ý định của mình. Thế nên khi thấy ông chọn binh chủng Nhảy Dù, anh em chúng tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì chúng tôi cứ nghĩ rằng gia nhập binh chủng Dù phải là những người xông xáo, có tí máu liều - xin lỗi quý vị bên Nhảy Dù. Đằng này, con người ông vốn quá mực thước. Nhưng dự đoán của chúng tôi sai. Ông đã thành công trong binh nghiệp, từ Tiểu Đoàn Trưởng đến Lữ Đoàn Trưởng Dù cho đến chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
Năm 1956, hai năm sau khi chúng tôi giã từ quân trường, tôi gặp lại ông ở Huế. Trông ông vẫn như trước, tuy da có xậm, nét mặt rắn rỏi, bớt đi phần nào dáng thư sinh ngày trước. Tôi tháp tùng phái đoàn các đơn vị ở Huế đến Phú Bài đón chào ông Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Trần Trung Dung đến viếng thăm Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu. Trước khi máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống Phú Bài, có vài chiếc máy bay vận tải DC3 chở binh sĩ Nhảy Dù từ Sài Gòn đáp xuống. Trung Úy Nguyễn Khoa Nam có mặt trong đoàn quân ấy. Đơn vị Nhảy Dù đến Huế biểu diễn nhảy dù trên sông Hương cho bà con cố đô xem. Chúng tôi mừng rỡ khi gặp lại nhau. Đang chuyện trò vui vẻ thì máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống, chúng tôi tạm chia tay.
Cuối năm 1968, tôi gặp lại ông sau mười hai năm xa cách. Ông đang chỉ huy một đơn vị Dù hành quân giải tỏa áp lực địch sau cuộc tấn kích đợt 2 Mậu Thân. Ông đóng bản doanh tại Phú Lâm, đang bận rộn với công tác hành quân, thành thử không có thì giờ chuyện trò lâu dài.
Đầu năm 1970, lần thứ ba sau khi chúng tôi rời quân trường, tôi gặp lại ông ở mặt trận đồng bằng sông Cửu Long. Tôi đã thay đổi cách xưng hô với ông lúc nào không biết. Không còn gọi ông thưa Anh mà thưa Đại Tá và sau cùng thưa Thiếu Tướng. Tôi là sĩ quan tham mưu và kỹ thuật phục vụ tại Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 và ông là cấp chỉ huy. Tuy cùng xuất thân một khóa ở Thủ Đức, ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi ròng rã sáu năm, nhưng trước hết và trên hết ông là bậc thầy của tôi. Ông đã để cho chúng tôi, những người có cơ hội phục vụ dưới quyền chỉ huy của ông - những tấm gương sáng về cung cách phục vụ Quân Đội và Đất Nước. Qua ông, chúng tôi đã thấy được những nét nhân dũng cao quý của một người chiến sĩ, một cấp chỉ huy. Qua cung cách điều quân cũng như đối nhân xử thế, chúng tôi kính phục ông. Trong quân đội, thuộc cấp tuân hành lệnh của thượng cấp là do quân kỷ nhưng sự kính phục thì nó đến từ con tim và khối óc. Cấp chỉ huy có thể đạt được sự vâng lời của thuộc cấp nhưng chưa hẳn đã thu được sự cảm mến và kính phục của người dưới quyền. Tướng Nguyễn Khoa Nam, lúc sinh thời, không thích ai nói về ông, nhất là những lời khen. Ông vốn rất mực nhu mì và phần nào kín đáo. Thế nên, cho dù qua năm tháng dài sống cạnh ông, tôi có một số kỷ niệm về ông, tôi vẫn giữ kín không hề thổ lộ. Nhưng nay, gần đến ngày 30 tháng 4, ngày đen tối của đất nước và cũng là ngày ông từ giã cuộc đời, nghĩ rằng ông đã thuộc về lịch sử, tôi viết vài giòng để tưởng nhớ đến ông.
Kính mong hồn thiêng của ông tha thứ cho tôi về việc làm trái ý của ông lúc sinh thời
(tác giả Lê Chu).
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29
Sự Tích Thập Đại Thần Tướng Việt Nam Thời Cận Đại:
1/ Thần tướng Trình Minh Thế (1922 - 1955)
2/ Thần tướng Trương Quang Ân và phu nhân 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 (1932 - 1968; 1931-1968)
3/ Thần tướng Nguyễn Viết Thanh 1, 2, 3 (1930 - 1971)
4/ Thần tướng Đỗ Cao Trí 1, 2, 3, 4, 5 (1929 - 1971)
5/ Thần tướng Phạm Văn Phú 1, 2, 3, 4, 5 (1929 - 1975)
6/ Thần tướng Lê Nguyên Vỹ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 (1933 - 1975)
7/ Thần tướng Trần Văn Hai 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 (1929 - 1975)
8/ Thần tướng Lê Văn Hưng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32 (1933 - 1975)
9/ Thần tướng Nguyễn Khoa Nam 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29 (1927 - 1975)
10/ Thần Tướng Hồ-ngọc-Cẩn
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử