lịch sử việt nam
Trí-Lực
Hồi Ký
Bao Nỗi Tang-Thương
In lần thứ hai năm 2012
Mục Lục
23
Biệt tăm
Con đường xuyên Á từ cửa khẩu Mộc Bài đến ngã tư An Sương đang được sửa sang và mở rộng, có nhiều đoạn đường đất đá lởm chởm khó đi. Mãi đến giữa trưa, toán công an áp giải mới đưa tôi về đến trại giam B34/A24 - Cơ quan an ninh điều tra, bộ Công an - tọa lạc tại số 237, đường Nguyễn Văn Cừ, quận 1, Sài Gòn. Nếu tính luôn lần vượt biển bị bắt giam hai năm tù ở tỉnh Tiền Giang vào năm 1981, thì nay là lần thứ tư tôi bước chân vào nhà tù cộng sản, hầu như tôi chẳng hề nao núng trong lòng.
Chiếc xe chở tôi vừa đỗ giữa sân trại giam, thì xe chở toán công an tiếp nhận tôi ở cửa khẩu Mộc Bài cũng vừa đến nơi. Trời nắng gắt, ánh dương chói chang khó chịu, tôi hơi bị chóng mặt và nhức đầu, có lẽ đi đường xa mệt nhọc. Vừa bước lên bậc thềm ở hành lang, tôi hất hàm bảo tên công an áp giải:
- Hãy mở còng tay cho tôi.
Gã kia trả lời cộc lốc:
- Chờ chút đã.
Tôi nổi cáu, bèn lớn tiếng:
- Chờ đợi cái gì nữa, đã vào đến trại giam rồi, các ông còn sợ tôi trốn đi đâu mà không mở còng.
Mấy người kia thấy vậy bèn ra lệnh cho ông ấy mở chiếc còng số 8 trên tay tôi. Một nữ công an trại giam trong khu nhà này đi ra nhận người, rồi ký vào biên bản giải giao bị can.
Viên thiếu tá Nguyễn Ðinh Hóa đưa tôi vào phòng cung số 2, trong phòng có gắn thiết bị ghi hình. Ông ấy đặt giữa bàn tấm bìa kẹp đủ thứ giấy tờ, có cả bức hình chân dung của tôi, ngoài bìa ghi dòng chữ lớn: “Hồ sơ Thích Trí Lực”. Qua các câu hỏi và đáp, một bản lý lịch đầy đủ chi tiết của tôi được cán bộ điều tra này viết vào biên bản ghi lời khai.
Khoảng 3 giờ chiều, ông Hóa dẫn tôi ra xe đậu sẵn ngoài sân, có vài người nữa cùng đi kèm. Họ đưa tôi đến trụ sở công an phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Sài Gòn.
Tại phòng làm việc, tôi ngồi chờ các người này viết biên bản khám xét. Ông Hóa lấy trong cặp ra một chiếc ví, đúng là chiếc ví của tôi mà khi bị bắt cóc hôm qua, mấy tên ngồi sau rút trong túi quần. Ông ấy mở ví lấy ra tấm thẻ chứng nhận quy chế tỵ nạn và chứng minh nhân dân, còn tất cả tiền bạc xem như mất trắng. Tôi chắc chắn rằng, những tên công an mật vụ bắt cóc tôi ở Campuchia đã bàn giao lại cho toán viên chức Bộ Công an ở cửa khẩu biên giới Mộc Bài vào sáng hôm nay. Như thế, đêm hôm qua, khi bắt cóc tôi lên xe, bọn công an mật vụ vùng Cửu Long thừa biết tôi được Liên Hiệp Quốc bảo vệ quyền tỵ nạn chính trị. Nay cơ quan An ninh điều tra bộ Công an lại lập biên bản khám xét tại trụ sở công an phường này chiều ngày 26 tháng 7 năm 2002, thu giữ của tôi một thẻ tỵ nạn mang số 610 IC, do bà Elizabeth Kirton - Trưởng Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh - ký ngày 28 tháng 6 năm 2002, công nhận quyền tỵ nạn.
Lập xong biên bản, tiếp đó thiếu tá Nguyễn Ðinh Hóa mời tôi đứng dậy để nghe tuyên đọc cái gọi là lệnh bắt khẩn cấp. Tôi có nêu thắc mắc với ông ấy, rằng tôi bị bắt ngày 25 tháng 7 năm 2002 ở Campuchia, chứ không phải tôi bị bắt ngày 26 tháng 7 năm 2002 tại biên giới. Ông ấy trả lời cho xong chuyện:
- Ai bắt anh ở Campuchia, ở đây chúng tôi không biết, tôi chỉ biết bắt anh sáng nay, nhằm ngày 26 tháng 7 mà thôi.
Tôi nghĩ, chuyện này mình tranh luận cũng chẳng đi đến đâu, họ chỉ việc cãi chày cãi cối là xong, bởi thế tôi bỏ qua.
Mọi người chở tôi trở lại trại giam B34, các cán bộ y tế vào kiểm tra sức khỏe và làm thủ tục lưu ký. Bị can phải gửi hết thảy tiền bạc, tư trang và các vật dụng không được phép mang vào buồng giam. Từ Phnom Penh về đây, tôi chỉ có vỏn vẹn một bộ đồ mặc trên người, đi chân đất và chẳng có một đồng dính túi. Cán bộ điều tra thông báo, mỗi tháng tôi được cấp phát 96.000 đồng (tương đương 6,5 đô-la Mỹ), với số tiền này, cán bộ phụ trách mua mì gói và một ít đồ ăn gửi vào.
Tôi bị giam ở buồng đối sách (đối tượng chính sách) số 1, thuộc khu tạm giữ, đối diện là dãy phòng cung. Bên trong là phòng làm việc của đội quản lý bị can. Sở dĩ tôi không gọi là cán bộ quản giáo (quản lý và giáo dục) như ở các trại giam thường gọi, bởi vì những người bị tạm giam ở đây đang trong thời kỳ điều tra xét hỏi, không thể xem như là phạm nhân khi chưa có phán quyết của tòa án, thì có tội gì đâu mà cần phải giáo dục.
Mặc dầu trong người không được khỏe, tôi cũng gắng lau chùi sạch sẽ căn phòng, bởi không có người ở nên bụi bặm đóng lớp. Họ đưa thêm một người nữa vào ở chung với tôi, do từng trải cảnh tù đày, tôi hết sức dè dặt khi nói chuyện, biết đâu người này sẽ báo cáo lại mọi chuyện của tôi, giúp cho công tác điều tra.
Cơ quan An ninh điều tra bộ Công an (A24) phối hợp với An ninh tôn giáo (A38) - sau này đổi thành A41- cùng thẩm vấn tôi. Họ tống đạt cho tôi quyết định khởi tố bị can về tội danh “Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân ”, theo điều 91, luật Hình sự; đồng thời ra lệnh tạm giam bốn tháng.
Cuối tháng 8 năm 2002, có lẽ cơ quan An ninh điều tra phát hiện ra sự vô lý của họ, khi họ lập biên bản khám xét tôi tại trụ sở công an phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, nên họ hủy biên bản này. Hai cán bộ điều tra chính là Nguyễn Ðinh Hóa (A24) và Hoàng Thanh Phúc (A41) mang đến phòng cung một biên bản đã viết sẵn, nội dung hoàn toàn trái sự thật, rằng tôi bị khám xét và bị bắt tại cửa khẩu Mộc Bài, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vào ngày 26 tháng 7 năm 2002. Người làm chứng cũng là một gã công an khác có mặt tại phòng hỏi cung để ký tên, thật đúng là một trò hề xảo trá. Ðáng lý tôi không ký vào biên bản này, nhưng khi suy nghĩ lại, đằng nào mình cũng đã bị biệt giam gần một tháng nay, bọn cộng sản sẽ không bao giờ thả mình ra một sớm một chiều, sau này khi ra tòa hẵng phơi bày sự thật.
Suốt thời gian thẩm cung, tôi luôn luôn khẳng định rằng, việc tôi ra đi lánh nạn là để có cơ hội tiếp tục phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở hải ngoại, bởi vì trong nước, Giáo hội chúng tôi bị chính quyền cộng sản của các ông đặt ra ngoài vòng pháp luật và đàn áp thô bạo.
Bằng lối chứng minh bắt cầu theo nghiệp vụ điều tra kiểu cộng sản, bọn chóp bu A24 cho rằng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một tổ chức chống phá nhà nước, nên họ quy chụp tôi theo tội danh “Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân”. Với tội danh này, theo luật Hình sự, tôi có thể bị xử tù từ ba năm cho đến chung thân.
Ngày lại tháng qua, mặc dầu bị giam cầm nghiêm ngặt trong chốn lao lung cùng khổ, thế nhưng, tinh thần tôi vẫn luôn luôn lạc quan với một niềm hy vọng rằng, Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn và các tổ chức bảo vệ nhân quyền, như Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền, Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam… sẽ không bao giờ bỏ rơi tôi, khi hay tin tôi bị mất tích ở Cam Bốt. Hà Nội có trách nhiệm phải trả lời trước công luận quốc tế về việc bắt cóc này, kể cả Nam Vang cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Biểu tượng Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền
Tôi ở buồng đối sách gần hết hai lệnh tạm giam tám tháng, công an trại giam vâng lệnh an ninh điều tra A24 thay đổi cả thảy ba người nhảy xô vào ở chung với tôi. Trước đây họ đều là đảng viên Cộng sản, hai viên công an và một thượng tá quân đội, chẳng một ai dám nhận lời chuyển tin tôi ra ngoài khi họ được thăm gặp gia đình.
Trung tuần tháng giêng Âm lịch năm Quý Mùi (nhằm ngày 17 tháng 2 năm 2003), nhân chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án Trương Văn Cam vào ngày 25 tháng 2 năm 2003 sắp đến, trại giam chuyển tôi và một số bị can khác tập trung xuống nhà C, tôi được biết nhà sử học Trần Khuê ở gần buồng giam với tôi. Trần Khuê là một nhân vật bất đồng chính kiến, ông ấy bị bắt giam vì đã mạnh dạn tố cáo đảng Cộng sản Việt Nam nhượng đất ở biên giới phía Bắc cho Trung Quốc. Ðược biết, ông tuyệt thực cả tháng nay để phản đối việc bắt giam phi pháp của nhà cầm quyền cộng sản.
Tôi bị giam chung với ông Hồ Trần Lập, nguyên trung tá quân đội, đảng viên Cộng sản, mọi người thường gọi ông là “Lập chảo”. Ông ấy bị bắt giam do lắp đặt một trạm ăng-ten Parabol để thu sóng điện thoại từ vệ tinh viễn thông.
Trại giam B34 nguyên là tổng nha Cảnh sát quốc gia thời chế độ cũ. Khu nhà C tọa lạc sát đường Nguyễn Văn Cừ, cách cổng chính số 237 chừng năm chục mét về phía tay mặt từ ngoài nhìn vào, mái nhà lợp tôn, tường quét vôi màu vàng. Ðây là một khu nhà giam phục vụ cho việc ép cung hoặc kỷ luật bị can. Hai cánh cửa sắt độc nhất đi vào nhà giam này thường xuyên đóng bịt bùng, ngoại trừ lúc công an giải người đi hỏi cung hoặc đưa cơm nước. Bên trong có cả thảy mười hai buồng giam, mỗi buồng có diện tích không đầy chín mét vuông. Cửa mỗi buồng giam nguyên trước đây là cửa song sắt, nay chế độ cộng sản hàn bít thêm hai tấm sắt dày. Trên vách tường cao, mặt trước và sau, trước đây đều có chấn song thông gió rộng lớn, nay chế độ cộng sản lại trám bít, hãy còn để lại dấu vết rõ ràng, chỉ chừa một hai khe nhỏ thông khí không đáng kể, một lỗ vuông chừng ba tấc để đưa thức ăn và nước uống vào. Không khí buồng giam hết sức ngột ngạt, nhất là những tháng nắng nóng. Hai cánh cửa sắt bên ngoài mỗi lần được đóng khóa lại, chúng tôi thường gọi đùa là “úp vung”, thì mọi người bị giam bên trong chẳng khác nào ở trong lò lửa.
Mỗi buổi sáng thức giấc, tôi nhìn lên khe vách, thấy có ánh mờ nhạt thì đoán biết ngoài trời đã sáng tỏ, khi đó mọi người gọi nhau hỏi thăm sức khỏe. Bên ngoài hai dãy phòng giam đều có đặt máy quay hình. Trong mỗi phòng, thiết bị nghe lén và ghi hình được ngụy trang bằng một đèn điện gắn vào vách tường, mọi sinh hoạt và trò chuyện trong buồng giam đều bị kiểm soát nhờ thiết bị này.
Cả tháng nay, hầu như tôi chưa hề bước chân ra khỏi cửa buồng giam, ngày ngày giam mình trong bốn bức tường nghiêm ngặt. Xe cộ lưu thông trên đường Nguyễn Văn Cừ ầm ĩ suốt ngày lẫn đêm, chẳng khi nào có một khoảnh khắc yên tĩnh, tiếng máy xe lẫn tiếng còi tựa hồ tra tấn bên tai.
Ngày 12 tháng 3 năm 2003, buổi sáng trời nắng dịu, tôi được ra ngồi dưới bóng râm để hớt tóc, lâu lắm rồi, nay tôi mới được bước chân ra khỏi cửa. Hớt tóc vừa xong thì cán bộ trại giam gọi đi làm việc. Ra đến phòng cung, ông Nguyễn Ðinh Hóa tống đạt cho tôi cái gọi là bản kết luận điều tra, do thượng tá Lý Anh Quán, phó thủ trưởng cơ quan An ninh điều tra ký tên. Theo bản văn này, hồ sơ vụ án được chuyển sang viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị truy tố tôi ra tòa án.
Theo luật Tố tụng hình sự, nay tôi được quyền gặp thân nhân, tôi bèn báo với cán bộ quản lý, xin giấy và mượn bút để viết đơn. Hai tuần lễ sau, ngày 25 tháng 3 năm 2003, viện Kiểm sát nhân dân tối cao tống đạt cho tôi cái gọi là cáo trạng. Tôi có hỏi lá đơn đã gửi trại giam nhờ chuyển đến viện Kiểm sát, đề nghị thông báo cho thân nhân tôi biết, tôi hiện đang bị bắt giam ở B34, đã tám tháng rồi mà thân nhân vẫn chưa hay tin, biệt vô âm tín. Nghe tôi hỏi, ông ấy tỏ vẻ lúng túng và trả lời, ông sẽ hỏi lại ông Hóa là cán bộ điều tra. Như vậy, đủ chứng tỏ rằng, những đơn từ của tôi đã bị bọn chúng ém nhẹm.
Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử