lịch sử việt nam
Trí-Lực
Hồi Ký
Bao Nỗi Tang-Thương
In lần thứ hai năm 2012
Mục Lục
18
Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn
Trung tuần tháng 5 năm 2002, bà Sara Colm - một viên chức thuộc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) phụ trách Á châu - mời chúng tôi đến văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, tọa lạc tại đường Mao Trạch Ðông (Mao Tse Tung Blvd) ở Phnom Penh để phỏng vấn, giáo sư Võ Văn Minh là người thông dịch. Bà ấy hứa sẽ làm hết sức mình để can thiệp cho chúng tôi. Trước khi ra về, bà không quên căn dặn chúng tôi phải hết sức cảnh giác, vì đã xảy ra nhiều vụ công an Việt Nam bắt cóc người tỵ nạn ở đây.
Sau này tôi được biết, ông Võ Văn Ái ở Pháp đã liên lạc và gửi gắm chúng tôi cho bà Sara Colm, nên mới có buổi gặp gỡ này. Trong thời gian chờ đợi Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, chúng tôi như sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, bởi có nguy cơ sẽ bị công an mật vụ Việt Nam lùng bắt bất cứ lúc nào.
Thế rồi, ngày tôi hằng mong đợi đã đến. Ông Mony viết giấy hẹn tôi đến phỏng vấn vào lúc 14 giờ, ngày 31 tháng 5 năm 2002. Tôi đi bộ ngang đài Ðộc Lập, thấy thời gian còn sớm bèn vào ngôi chùa lớn ở gần đó để lễ Phật và nghỉ chân. Tôi tiếp tục đi dọc theo đường Norodom, đến ngã ba đường số 352, tôi nhìn thấy hai người lảng vảng dưới bóng cây bên góc đường, ánh mắt họ nhìn tôi ra vẻ dò xét. Tôi dừng chân dưới bóng cây xoài phía trước Phủ Cao ủy, mấy nhân viên bảo vệ vui vẻ ra hiệu cho tôi đến ký tên vào sổ và nhận thẻ kiểm soát.
Ngồi chờ một chốc ở dãy ghế đặt trước hàng hiên, ông Mony dẫn tôi lên phòng làm việc ở lầu một rồi trở ra. Tôi kiểm lại các giấy tờ mang theo và hy vọng tràn trề, chiều hôm nay, mình sẽ được Cao ủy phỏng vấn sau gần một tháng rưỡi sang đây. Khoảng mười phút sau, ông Mony trở vào phòng, đi theo là một viên chức phốp pháp, trên tay hai người đều mang hồ sơ dày cộm. Tôi đứng dậy gật đầu chào, hai vị ấy mỉm cười chào lại và đưa tay ra dấu mời tôi ngồi xuống. An tọa xong, viên chức kia giới thiệu ông Mony bằng tiếng Việt hết sức sành sỏi. Ông ấy nói tiếp:
- Tôi tên là Göran Rosén, đã từng sống và làm việc ở Việt Nam gần hai mươi năm nay, tôi cũng vừa mới từ Việt Nam về. Trong buổi phỏng vấn hôm nay, tôi sẽ là người thông dịch. Tôi đã đọc kỹ hồ sơ xin tỵ nạn của ông, xin ông có thể cho tôi được gọi ông bằng thầy trong cách xưng hô.
Tôi mỉm cười đáp lại:
- Tôi rất lấy làm hân hạnh được gặp hai ngài, và tùy quý ngài muốn gọi thế nào cũng được.
Hai viên chức phủ Cao ủy Tỵ nạn thong thả soạn các hồ sơ ra giữa bàn. Bất chợt tôi thoáng nhìn thấy một văn bản tiếng Anh, trên góc trái có in huy hiệu đặc biệt của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế hết sức quen thuộc, cạnh đó là một văn bản có in dòng chữ Human Rights Watch (Tổ chức Theo dõi Nhân quyền). Tôi suy đoán rằng, như vậy là những thông tin liên lạc của tôi ở Campuchia đã được Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tiếp nhận. Nay ông Võ Văn Ái đã gửi thư nhằm can thiệp với phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc về tình trạng của tôi. Thêm nữa, tôi đoán chừng bà Sara Colm cũng đã gửi văn bản đến phủ Cao ủy, ngõ hầu can thiệp cho thầy Tâm Vân và tôi sau buổi phỏng vấn vừa qua tại văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh.
Biểu tượng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế
Tôi chăm chú lắng nghe ông Göran Rosén nói một cách chậm rãi từng câu tiếng Việt rất chuẩn và rõ ràng:
- Hôm nay, chúng tôi đại diện Phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc tiến hành phỏng vấn thầy. Sau đó, chúng tôi sẽ xem xét thầy có đủ tư cách và điều kiện để hưởng quy chế tỵ nạn chính trị hay không? Chúng tôi có bổn phận giữ kín nội dung trao đổi, nghĩa là sẽ không công bố các vấn đề được nêu ra trong buổi tiếp xúc này. Nếu xét thấy chưa hội đủ tiêu chuẩn để hưởng quy chế tỵ nạn, thì chúng tôi sẽ giới thiệu thầy đến gặp luật sư về công pháp quốc tế, để nhờ vị ấy giúp đỡ.
Nói đến đây, ông Göran quay sang nói chuyện với ông Mony bằng tiếng Anh, đoạn ông ấy nói tiếp:
- Theo nguyên tắc, một người được gọi là tỵ nạn, người ấy phải từ một đất nước khác đến đây là quốc gia thứ hai. Sau khi được công nhận quyền tỵ nạn, Liên Hiệp Quốc sẽ điều đình xem có quốc gia thứ ba nào chấp thuận cho người ấy định cư, văn phòng Cao ủy sẽ làm thủ tục cho người ấy ra đi. Như vậy, người Campuchia không thể đến đây xin tỵ nạn, mà phải đi đến một đất nước khác. Nay thầy hãy cho chúng tôi biết, ở Việt Nam, thầy đã gặp phải tình cảnh như thế nào mà phải sang đây lánh nạn và cần Phủ Cao ủy chúng tôi giúp đỡ?
Tôi tập trung suy nghĩ và sắp xếp trình tự câu trả lời ngắn gọn, ông Göran dịch lại từng đoạn ngắn bằng tiếng Anh cho ông Mony hiểu. Thỉnh thoảng họ ghi chép vào biên bản phỏng vấn và sổ tay những ý tưởng tôi vừa trình bày. Tôi trả lời:
- Thưa quý ngài, trước hết tôi chân thành cảm ơn Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã dành cho tôi buổi phỏng vấn hôm nay. Kể từ khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đã đặt ách thống trị hà khắc, đang tâm đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chúng tôi một cách thô bạo và hết sức nghiệt ngã. Ðây là Giáo hội truyền thống được kế thừa trải qua gần hai nghìn năm lịch sử. Nhiều vị trong hàng Giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội bị cầm tù hoặc bị quản thúc, các vị khác đành phải bỏ quê hương đất nước ra đi, vượt qua muôn nghìn hiểm nguy sóng gió trên biển Ðông để đến được bến bờ tự do. Hiện nay, hai ngài lãnh đạo Giáo hội là Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ đang bị quản thúc nghiêm ngặt.
Năm 1992, ngài Thích Ðôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, đã để lại chúc thư phó thác cho ngài Thích Huyền Quang tiếp tục điều hành Phật sự Giáo hội. Bản thân tôi đã có những hoạt động đòi hỏi tự do tôn giáo, qua công cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tôi bị chính quyền Cộng sản bắt ngày 2 tháng 10 năm 1992, cùng lúc với ngài Thích Không Tánh và giáo sư Nhật Thường. Một thời gian sau, chúng tôi được thả và bị quản thúc vô thời hạn.
Ngày 6 tháng 11 năm 1994, chúng tôi tham gia cứu trợ đồng bào lâm cảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long do ngài Thích Quảng Ðộ tổ chức, chúng tôi lại bị bắt giam. Ngày 15 tháng 8 năm 1995, tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra án quyết phạt tôi ba mươi tháng tù giam và năm năm quản chế. Ðáng lẽ tôi được mãn án vào đầu năm 2002, thế nhưng nhà cầm quyền cộng sản vẫn tiếp tục quản thúc tôi, quyền sống của tôi bị chà đạp, bởi thế tôi đành phải tìm đường vượt biên giới sang đây lánh nạn.
Thuyền nhân lánh nạn cộng sản
Ông Göran Rosén hỏi:
- Thầy vượt qua biên giới hai nước vào ngày nào?
- Tôi vượt biên giới và đặt chân đến xứ Chùa Tháp vào ngày 19 tháng 4 năm 2002.
- Khi đi thầy có hộ chiếu thông hành hay không?
- Thưa không, làm sao tôi có thể được cấp hộ chiếu trong khi tôi không có hộ khẩu.
- Tại sao thầy không có hộ khẩu?
- Theo luật pháp Việt Nam, người nào bước chân vào tù là đã bị chính quyền địa phương xóa tên trong sổ hộ khẩu.
- Khi mãn hạn năm năm quản thúc, chính quyền cho thầy nhập lại hộ khẩu hay không?
- Thưa không.
Sau khi nói chuyện với ông Mony, ông Göran hỏi tiếp:
- Các bị cáo trong phiên tòa gồm có những ai? Tất cả bị kết án về tội danh gì?
- Các bị cáo trong phiên tòa hôm ấy gồm có quý ngài Thích Quảng Ðộ, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, thầy Nhật Thường, Phật tử Ðồng Ngọc và tôi. Chúng tôi bị kết án theo hai tội danh: “ Phá hoại chính sách đoàn kết ” và “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước”.
- Sau khi kết án, chính quyền giam giữ thầy ở đâu?
- Sau khi tòa phán quyết bản án, tôi bị giam giữ tại trại Z30A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai.
Ông Göran gật đầu:
- Ðã có lần tôi đến trại Xuân Lộc.
Tôi lấy các giấy tờ liên quan trong thời gian bị cầm tù và quản thúc trao cho ông Göran, ông ấy xem từng văn bản và lần lượt giải thích cho ông Mony hiểu. Hai vị ấy thay nhau hỏi tôi thêm một vài sự việc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những nguyên nhân đưa đến sự lánh nạn của tôi hôm nay.
Ông Mony lần lượt ghi vào tập hồ sơ phỏng vấn.
Sau khi nói lời kết thúc, hai viên chức ấy hẹn tôi có mặt tại văn phòng Cao ủy vào sáng thứ hai tuần tới. Chúng tôi chào tạm biệt.
Tôi bước chân ra về trong niềm vui lâng lâng, cơn mưa lớn ban chiều cũng vừa tạnh hẳn. Tôi ghé qua trạm điện thoại bên đường gọi cho anh Võ Thành Vinh, nhờ anh ấy chuyển lời lại với bà Sara Colm, báo tin cho bà ấy biết, rằng hôm nay tôi đã được Cao ủy Tỵ nạn phỏng vấn và xin có lời cảm ơn bà rất nhiều.
Ngày 3 tháng 6 năm 2002, tôi được phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh cấp giấy tạm thời trong lúc chờ đợi cứu xét được hưởng quy chế tỵ nạn. Cơ quan trực thuộc Cao ủy Tỵ nạn là Jesuit Refugee Service (J.R.S) ở Campuchia cấp phát cho người tỵ nạn tám mươi lăm Mỹ kim mỗi tháng, nhờ đó, tôi có thể đắp đổi qua ngày.
Tôi gửi thư liên lạc với thầy Thích Vân Ðàm và ông Võ Văn Ái, báo tin về việc phỏng vấn và đã có giấy chứng nhận tạm thời. Bước đầu như thế, tôi nghĩ rằng tương đối khả quan.
Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử