lịch sử việt nam
- Cuộc Chiến Tranh Hồ chí minh Đánh Dân Tộc Việt Nam Tập 2 -
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17
Nhóm Tâm Việt Úc Châu Biên Khảo
(tái bản có sửa chữa)
Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010
MỤC LỤC
CHƯƠNG 4
CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH (tt) trang 05
CHƯƠNG 5
NHỮNG CÂY NGƯỜI HỒ CHÍ MINH TRỒNG 22
CHƯƠNG 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 50
CHƯƠNG 7
HỒ CHÍ MINH, CON VẸT CỦA STALIN 80
Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010
Hồ Chí Minh nổi tiếng là đã tuyên bố những lời thật hay. Ngày 2-9-1945, trước quảng trường Ba Đình, lần đầu tiên xuất hiện trước Dân tộc Việt Nam, Bác đã đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập đầy những ý tưởng cao đẹp lấy từ Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ cùng với Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cuộc Cách mạng Pháp năm 1791.
Lời Quản Di Ngô, Bác Hồ lặp lại
Cũng như khi phát biểu trong lớp học tập chánh trị cho hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc do Bộ Giáo dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.”
Qua ngày hôm sau, báo Nhân dân đăng câu phát biểu của Bác lên cho cả nước biết, rồi câu đó được biến thành khẩu hiệu treo ở tất cả các trường đại học và trung tiểu học khắp nơi ở miền Bắc. Trong sách báo tuyên truyền của Đảng cũng như trong lòng của những người tôn kính Bác, danh ngôn trên được xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho Đất nước. Nhưng thật ra, câu trên là lời của Quản Trọng tức Quản Di Ngô thời Xuân Thu bên Tàu khoảng hơn 2.000 năm trước. Trong quyển Quản Tử, thiên 3, nguyên văn câu danh ngôn đó như sau:
Thập niên chi kế mạc như thụ mộc
Chung thân chi kế mạc như thụ nhân
Hồ Chí Minh cũng bị mang tiếng về tài đạo văn tức là tài ăn cắp văn của người khác làm văn của mình. Nhưng việc đạo văn không phải là chủ đề của chương nầy. Người viết không muốn phạm vào tội kết án “Bác Hồ” đạo văn. Trong lòng người viết, Bác có thể xử dụng và khoe là của chính mình bất cứ danh ngôn nào của những bậc thánh hiền hoặc danh nhân trong sử Việt hay sử thế giới, tỷ như câu nói khảng khái của danh tướng Trần Bình Trọng đời nhà Trần khi bị quân Nguyên bắt và dụ hàng: “Thà làm quỉ nước Nam hơn làm vương đất Bắc”. Nhưng thật bất hạnh cho Dân tộc! Khi Hồ Chí Minh rời Paris như một người lục lục thường tài, đến Mạc Tư Khoa không lâu thì được đề cử vào chức vụ Quốc tế ủy Kominternchik (năm 1924), cho nên Bác đã phục vụ đắc lực cho Cộng sản Đệ tam Quốc tế để sau này được làm Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!
Trong niềm tự hào của Dân tộc, xin mời quý bạn đọc lời tự thuật của cụ Phan Bội Châu về quãng đời niên thiếu của cụ: “Cha tôi thường khách phương xa, làm thầy dạy trẻ. Tôi từ lúc mới sinh cho đến 6 tuổi, dạy dỗ nuôi nấng tự một mình mẹ tôi gánh lấy... Khi tôi còn bé, mẹ tôi dỗ tôi, nửa câu nói cũng không khinh xuất.”
Khi bậc hiền mẫu như mẹ cụ Phan Bội Châu muốn dạy dỗ con nên người thì nửa câu nói cũng không khinh xuất. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sao, bạn đọc thân mến ơi, vì bản tánh Bác vốn đã dối trá, lại thêm kỹ năng tình báo do KGB đào luyện, Bác đã đóng trọn vai tuồng Cha già Dân tộc một cách điêu luyện. Đối với nhân dân tôn sùng Bác, những lời phát biểu, tuyên bố hay dạy dỗ của Bác đều là những lời vàng ngọc trong thời cơ kháng chiến chống Pháp của lịch sử trăm năm có một. Nhưng theo câu vè phổ biến trong thời đại Việt Cộng “Nói vậy mà không phải vậy”, khi kiểm chứng lại những điều Bác và Đảng đã tuyên bố đối chiếu với những điều họ đã làm cho Dân tộc thì thật hoàn toàn trái ngược. Nếu Bác thực hiện đúng những điều Bác đã nói thì thật đại vạn hạnh cho Dân tộc. Nếu được như thế thì mãi sau nầy vào thập niên 60, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu làm gì có dịp nói một câu để đời: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm!”
Bây giờ thì khắp nước ai cũng biết Việt Cộng nói láo như Vẹm (vẹm là kết tự của VM tức Việt Minh), Nguyễn Văn Linh (NVL) trong giai đoạn cởi mở rồi lại trói buộc nên đã trở thành Nói Và Lờ, còn Hồ Chí Minh thì cứ luôn luôn hô hào đánh ngoại xâm để giải phóng Dân tộc khỏi ách nô lệ, nhưng lại thiết lập một chế độ cai trị tàn bạo ác độc quỷ quyệt bỉ ổi nhất trong lịch sử loài người, khiến cho Dân tộc trở thành nô lệ cho Đảng. Trở lại chủ đề Những cây người của Hồ Chí Minh Trồng, chúng ta cứ ví như khẩu hiệu “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” thật sự là tư tưởng vĩ đại chính từ thiện tâm muốn xây dựng Đất nước của Bác, chúng ta hãy thử xem Hồ Chí Minh và Đảng đã trồng được những gì. Trước hết, xin mời quý bạn đọc lược qua những cây thảo mộc do Bác ra lịnh trồng. Sau đó, đến phần quan trọng, xin thưởng thức những cây người Hồ Chí Minh trồng trên đất Việt thân yêu của chúng ta.
Trồng cây không chọn giống
Câu chuyện trồng cây dưới chế độ ưu việt của Hồ Chí Minh thật giống như chuyện tiếu lâm dở khóc dở cười. Trong thời gian mười năm (1982-1992), Hòa thượng Thích Quảng Độ bị quản thúc ở chùa Long Khánh xã Vũ Đoài, một hôm hòa thượng gặp một toán bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa. Hòa thượng trò chuyện với các cụ và kể lại như sau:
“Tôi hỏi các cụ đi đâu thì các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm. Tôi tò mò hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm, các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc... những cây các cụ trồng xong, chỉ ít ngày sau là người ta đã bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm, bởi vậy các em bé chăn trâu cho Hợp tác xã mới làm vè hoan hô các cụ:
Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín một cây gật gù!
Nghĩa là trong con mắt các cháu thì mười cây còn sống được một cây, nhưng dưới mắt các cụ thì mười cây chết hết cả mười! Thực ra thì các cụ chỉ trồng chúng xuống để lấy điểm sống qua ngày thôi, còn chúng sống hay chết cũng mặc, các cụ đâu có quan tâm. Còn những người bẻ hoặc nhổ cây đi thì lại nghĩ chúng có lớn lên mình cũng chẳng được dùng, thôi thì nhổ phứt đi cho khuất mắt”.
Theo Hòa thượng Thích Quảng Độ, thì những cây được trồng là bạch đàn, xà cừ, phi lao, và hợp tác xã dùng chúng làm củi đốt, nung gạch, hoặc làm nhà kho. Bàn về chính sách sai lầm trong việc trồng bạch đàn, xin mời quý bạn tham khảo bài viết của một chuyên gia hiếm hoi về môn Dân tộc thực vật học (ethno-botanique), ông Đinh Trọng Hiếu, chuyên gia nghiên cứu Trung tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học Paris và giảng sư Đại học Paris VII. Ông về nước nhiều lần, có dịp đi thực địa nhiều làng, có làng ở suốt hơn tháng, trải qua chiều sâu của 10 năm theo dõi, quan sát, nghe ngóng, và nhất là sống với những tầng lớp đồng bào bình dân. Ông đã nhận xét và viết như sau (Trích quyển Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Tuyển tập nhiều tác giả, trang 219):
“Tôi đã đứng trên nhiều quả đồi, nhìn Đất nước đổi thay như vậy, cảm động đến rơi nước mắt. Núi rừng bạt ngàn, trùng điệp vạn dặm, xanh tươi. Tôi cũng đã cúi nhìn từng gốc cây, xem xét từng thớ đất, và hỏi han rất nhiều người. Cảm động đến rơi nước mắt là vì các cụ, đồng bào đã mồ hôi nước mắt gia công vào chuyện trồng cây, mà trồng những 350.000 héc-ta san sát, chứ không ít. Nhưng hỡi ôi, lại trồng toàn bạch đàn! Phải nói rõ: rừng bạch đàn là một tai hại. Trồng cây cốt để tái tạo đồi trọc, tránh đất xói mòn, mà bạch đàn được trồng rễ vừa ít ăn sâu lan rộng, tán lại hẹp, lá không che mưa. Lá những loại bạch đàn được trồng, nếu không đủ chất cinéol để cất tinh dầu (dầu khuynh diệp) lại quá nhiều chất ấy để tạo mùn cho đất. Cho nên dưới tán bạch đàn cây con khác và cỏ không mọc được, rễ trơ và đất trơ. Lá dùng không được, gỗ cũng lại không dùng được: gỗ bạch đàn dễ vênh, đóng đồ đạc không ai ưa, làm nhà cũng vậy. Ca dao (mới) có câu: “Thứ nhất là gỗ vàng tâm. Thứ nhì gỗ nghiến, thứ năm... bạch đàn”.
Không có thứ ba, thứ tư gì cả, giáng ngay xuống hàng năm!... Bạch đàn trồng như vậy có dùng làm giấy được không? Cũng không nốt! Vì thớ gỗ quá ngắn. Chỉ còn dùng làm củi nếu không có thứ gỗ nào khác: khói bạch đàn dễ ám vào cơm! Hăng hái trồng cây theo lời dạy của cụ Hồ, trồng bạt ngàn bạch đàn, để có những cánh rừng mà nhà báo, nhà địa lý nọ kia đều khen ngợi, nhưng rồi không dùng được vào việc gì, và cũng không giữ được đất, lại chiếm một diện tích quá rộng, lỗi ấy tại ai? Có phải tại cụ Hồ không? Người ta đã đổ lỗi cho những nhà nông học Trung Quốc xúi trẻ ăn cứt gà, nên bây giờ bạch đàn cũ đã trồng từ mấy chục năm nay gọi chung là bạch đàn Trung Quốc, tạm không trồng nữa, nay trồng một loại cây cũng loại tăng trưởng mau, lá to, gọi là bạch đàn Úc, chưa biết sau này tốt xấu ra sao.”
Dùng hồng bỏ chuyên: thất bại trong việc trồng chuối
Trồng bạch đàn Úc, tức là khuynh diệp Úc, sau nầy xấu tốt ra sao chưa biết, nhưng kế hoạch trồng chuối ở những vùng đồi trọc ở Tây Bắc và Việt Bắc thì thất bại hoàn toàn. Đi tìm nguyên nhân của sự thất bại thì: “Nguyên nhân chẳng phải sâu đào. Thấy ngay thủ phạm: vàng sao lá cờ”(Thơ Nguyễn Chí Thiện)
Ngày nay ai cũng biết Hồ Chí Minh đã xây dựng một chế độ cai trị độc tài đảng trị dựa vào những đảng viên trung kiên xuất thân là bần cố nông thất học, còn hàng ngũ trí thức là mục tiêu hàng đầu bị đàn áp, thường xuyên bị hạ nhục và khủng bố. Về kế hoạch trồng chuối, tác giả Việt Thường trong quyển Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ Chí Minh(tr.194) kể lại câu chuyện như sau:
“Về chuyên môn nông nghiệp thì dù là kỹ sư nông nghiệp nhưng vẫn phải xin ý kiến về mọi mặt của Hoàng Anh, Bí thư Trung ương Cộng đảng kiêm Phó thủ tướng Chính phủ. Nhân vật này xuất thân là dân nghèo thành thị, nghĩa là chẳng biết nghề nông cũng chẳng biết gì về công, thương hay thủ công nghiệp. Cho nên mới có chuyện Hoàng Anh đã triệu tập một cuộc họp toàn quốc (tức miền Bắc Việt Nam) về nông và lâm nghiệp, có đủ mặt chức sắc các tỉnh, thành, khu, các nhà khoa học về nông lâm học và đương nhiên có mặt kỹ sư nông học Nghiêm Xuân Yêm, lúc đó giữ chức Bộ trưởng nông nghiệp. Hoàng Anh phổ biến sáng kiến vĩ đại của ông ta là phủ kín các đồi núi hoang hóa vùng Tây Bắc và Việt Bắc bằng cách trồng chuối. Tiến sĩ lâm học Thái Văn Trừng (tác giả cuốn sách nổi tiếng Về hệ thảm thực vật ở Việt Nam) đã phát biểu ý kiến rằng cấu tạo bộ rễ của cây chuối không cho nó sống được trên đồi trọc ở Tây Bắc và Việt Bắc. Tất nhiên là kỹ sư nông nghiệp Nghiêm Xuân Yêm, giữ thái độ im lặng, có nghĩa là tuân lệnh của Hoàng Anh. Vì thế, Hoàng Anh đã nổi giận chỉ tay vào mặt Tiến sĩ Thái Văn Trừng mắng ở giữa hội nghị, đại ý: “Anh tưởng anh là ai mà làm nguội nhiệt huyết cách mạng dám làm dám nghĩ của đảng của giai cấp vô sản. Chỉ cần có đảng lãnh đạo thì cái gì cũng có thể làm được. Trí thức các anh chỉ là lũ hoang mang, giao động trước các trào lưu cách mạng.”
Sau đó, lệnh trồng chuối của Hoàng Anh được ban hành khắp các tỉnh, các ngành, các giới và đảng đã huy động tiền và nhân công đến các đồi trọc ấy để thi hành. Không kể tiền quyên góp bằng cách cưỡng bức, không kể biết bao dân công được huy động đi sưu, làm không công, cũng như cán bộ, công nhân viên và bộ đội, ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm triệu vào cái sáng kiến quái gở đó của Hoàng Anh. Kết quả là chỉ sau 3 ngày đêm, toàn bộ chuối được trồng chết hết”.
Nếu ta biết vào thời gian đó, lương một Bác sĩ y khoa mới ra trường là 48 đồng một tháng và sau 2 năm mới tăng được 60 đồng, thì Hoàng Anh đã gây thiệt hại vô cùng to lớn cho công quỹ. Thế mà ông ta vẫn cứ là Bí thư Trung ương kiêm Phó thủ tướng, thôi làm công tác nông nghiệp mà được sang kiêm nhiệm Bộ trưởng bộ Tài chính! Còn Tiến sĩ Thái Văn Trừng, tuy lời đề nghị đúng trong phạm vi chuyên môn, nhưng đã bị mắng oan và sau đó, không được một lời tạ lỗi để an ủi.
Chuyện cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ
Cách trồng cây trong nông nghiệp và lâm học là như vậy, nếu trồng bạch đàn Trung Quốc không có lợi thì có thể đổi bằng bạch đàn của Úc, nhưng cách trồng người theo lời dạy của “Bác Hồ” còn bi thảm và tác hại khôn lường đến nền văn hóa đạo đức khó có cơ phục hồi. Nhắc lại thời điểm sau hội nghị Genève 20-7-1954, Hồ Chí Minh và bè đảng từ Việt Bắc kéo về Hà Nội để làm chủ nhân ông trọn cả miền Bắc từ sông Bến Hải trở ra. Họ tha hồ giết người, cướp của, bắt bớ tù đày gây biết bao tội ác và tệ nạn xã hội. Những cây người mà Hồ Chí Minh vừa trồng trên đất Việt được cụ Phan Khôi trong nhóm Nhân Văn dùng lối văn ẩn dụ để viết thành bài Cây Cộng sảntrong tập truyện Nắng chiều. Đáng lý ra, bây giờ chúng ta đã không biết một tý gì về bài Cây Cộng sản cụ Phan Khôi viết để châm biếm Đảng nếu không có một vị cứu tinh. Đó là Đoàn Giỏi, một cán bộ trong Nam tập kết, đã giả vờ viết bài đả kích cụ là phản động để phổ biến những nét đại cương của tác phẩm mà Đảng đã cấm không cho xuất bản. Bài đả kích cụ Phan Khôi của Đoàn Giỏi với tựa đề Tư rưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi nguyên văn như sau (chỉ xin trích phần phê bình về Cây Cộng sản), xin mời quí bạn thưởng thức văn phong của cụ Phan Khôi trộn lẫn với lối viết lách (vừa viết vừa lách) của Đoàn Giỏi:
“Trở lại bài Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đã chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng: ... có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật Bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có.
Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại như rừng, ken kít nhau (ghi chú của tác giả: ý phá hoại dolịnh Tiêu thổ Kháng chiến của Hồ Chí Minh). Nơi gọi là Cỏ bù xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là Cây cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. Tên đều không nhã tí nào hết, thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản. Phan Khôi bịa rằng trước kia nước ta không có cây này (cứt lợn dại), người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su để che đất cho mát gốc.
Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đang bắt đầu hoạt động, phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là herbe communiste, đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là cây CS. Nó còn một tên nữa rất lạ...
Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ. Hỏi ông tên nó là cây gì, ông nói nó là Cỏ cụ Hồ. Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đồng, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy.
Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít, toàn những tên không nhã tí nào hết để gọi nó là Cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ? Cái con người vẫn tự cho là học giả, bản chất phản phúc, con người đã đưa ra thứ triết lý con chó thì phải ăn cứt thì việc mượn tên xấu của một giống cây cỏ, để xỏ xiên nói móc nói chửi cạnh chửi khoé Cộng sản là cái sở trường của y!”
Trên năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Phan Khôi sáng tác bài Cây Cộng sản. Vào thời điểm đó, tức là 1956, người chiến sĩ lão niên cang cườngấy cùng với hơn 50 văn nghệ sĩ miền Bắc quyết tâm xây dựng Mùa xuân Hà Nội để mang tự do sáng tác cho văn nghệ và dân chủ cho Dân tộc. Nhưng Đất nước thật bất hạnh, Hồ Chí Minh và Đảng lại quyết tâm xây dựng một chính phủ độc tài đảng trị theo chủ thuyết Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông nên đã thẳng tay đàn áp dã man gây nên vụ án Nhân văn Giai phẩm ô nhục trong lịch sử.
Những điều Phan Khôi nói về Cỏ cụ Hồ, Cây Cộng sản, Cỏ bù xít, Cây cứt lợn, Cây chó đẻ, thật ra là những nhân sự đốn mạt quá hồng mà không chuyên được Hồ Chí Minh trọng dụng cho được việc Đảng mà Phan Khôi quan sát được trong một quãng rất ngắn chỉ 11 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản từ 1945 đến 1956. Đến thời điểm 1956, Hồ Chí Minh chỉ mới làm Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch Nước không hơn 2 năm (kể từ sau hiệp định Genève, Hồ Chí Minh và Đảng làm chủ nhân ông trọn vẹn miền Bắc vĩ tuyến 17) và Trần Quốc Hoàn, người Bộ trưởng Công an đầu tiên của chế độ còn nắm quyền công an thêm 24 năm sau đó. Theo thời gian, Cây Cộng sản càng đâm chồi nẩy lộc, Cỏ Cộng sản lan tràn khắp cả Đất nước phủ kín hết những vùng đất phì nhiêu của trí tuệ và trấn áp sĩ khí của Dân tộc khiến cho Hoa Tự do Dân chủ Nhân quyền không nẩy mầm được, còn nói chi đến việc đơm bông kết trái!
Những tên đao phủ của “Cha già Dân tộc”
Những Cây người mà Hồ Chí Minh trồng, những Cỏ cụ Hồ của cụ Phan Khôi, những người không còn là người nữa nếu họ ôm chân đảng của Hoàng Hữu Quýnh (tác giả quyển Tôi bỏ Đảng), những Bự giòi của nhà văn nữ Dương Thu Hương... tất cả những thứ đó đã nắm tay reo hò nhảy múa Sol Đố Mì, chà đạp trên Hồn thiêng Sông núi, giày xéo trên Lăng miếu Đình chùa di tích lịch sử của tiền nhân, dẫm nát trên xương máu tài sản của Đồng bào, trên tự do hạnh phúc của Dân tộc... tất cả là những Đảng ủy và những Công an của Quốc tế ủy Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn Bộ trưởng Công an đầu tiên đào luyện và xử dụng. Sau đây là vài câu chuyện vụn vặt về những Cây người đó. Xin mời quý bạn xem chúng đã tác oai tác quái như thế nào đối với Đất nước và Dân tộc, và đấy chỉ là phần nổi nhỏ nhoi được tiết lộ. Còn phần chìm của tảng băng sơn tội ác Cộng sản vĩ đại xảy ra trong bóng tối như Đêm giữa ban ngày không lời nào diễn tả hết, không giấy bút nào ghi hết cho được, không sử gia nào biên chép lại cho đầy đủ.
Hồ Chí Minh đã chọn Bộ trưởng Công an dâm dục và tàn ác là Trần Quốc Hoàn (giữ chức bộ trưởng 27 năm từ 1953 đến 1980), thì phụ họa theo phải có những tên đao phủ cai ngục để giam cầm và tàn sát những người mà công an vây bắt. Tác giả Trần Nhu trong quyển Địa ngục sình lầy(trang 111) liệt kê những tên đao phủ như Lý Bá Sơ, Tuần Ất, Hãn Đen, Phạm Diến... Chỉ riêng Lý Bá Sơ, trong thời kỳ diệt Quốc dân Đảng năm 1945-46, đã một tay chỉ huy đội tự vệ hạ sát bằng dao găm mã tấu bốn ngàn người ở dọc bờ sông Dương Úc, Tiên Lãng, ngoại thành Hải Phòng. Y đã được Hồ Chí Minh tặng nhiều bằng khen, và sau này y được chính Hồ Chí Minh cử giữ chức Tổng giám đốc Trại giam khu Ba và Tư.
Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn với bút danh Nguyễn Kiên Trung trong quyển Đem tâm tình viết lịch sử có thuật chuyện một đảng ủy khát máu ở tỉnh Hưng Yên như sau (trang 63 sđd): “Riêng ở Hưng Yên, Học Phi, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh, đã công khai hạ lệnh xử tử ít lắm là năm ngàn người, ấy là không kể số người bị thủ tiêu một cách đơn giản ở các phủ, huyện, làng, xóm. Cuộc khủng bố này đã khiến cho tỉnh Hưng Yên, trong một năm trời, vắng hẳn bóng những người biết đọc, biết viết. Rồi cũng do đó, tỉnh Hưng Yên sẽ là tỉnh nhiều nhất những người chống Việt Minh, không vì chủ nghĩa hay chính trị, mà chỉ vì oán thù trong tang tóc.”
Chuyện đao phủ Phùng Thế Tài
Con Bự giòi khát máu khác của Đảng là Phùng Thế Tài, câu chuyện do tác giả Việt Thường thuật trong quyển Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ Chí Minh(trang 66). Vốn là đứa bé chuyên quét chợ và khiêng hàng mướn ở chợ Mông Tự tỉnh Vân Nam, Tài lọt vào mắt xanh của Hoàng Văn Hoan và ông dùng Tài làm người bảo vệ. Chính ông đã đề cử Tài vào học trường Quân sự Hoàng Phố. Tốt nghiệp trường Hoàng Phố, mang cấp bực trung úy của quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng, Tài được chỉ định làm cận vệ cho Hồ Chí Minh. Vì là trung úy đặc vụ của quân Tưởng nên Tài bảo vệ Hồ đi trên đất Tàu rất thuận lợi. Tài thăng tiến nhanh trên đường phục vụ Bác và Đảng, được vào biên chế quân chính quy, lần phong hàm đầu tiên cuối năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp là đại tướng tổng tư lệnh thì Phùng Thế Tài được phong cấp đại tá. Theo tác giả Việt Thường: “Máu du đảng cao bồi vẫn vậy, Tài thường xách ba-toong đánh lính và chửi lính. Tài rất ghét lớp lính và sĩ quan có nguồn gốc học trò hoặc tầng lớp trên trong xã hội. Cái mặc cảm đó làm Tài cực kỳ hung hăng, thô bạo với cấp dưới.”
Việt Thường cho rằng Phùng Thế Tài đã không uổng công Hồ Chí Minh tín nhiệm. Trong vụ thanh niên miền Nam tập kết bất mãn vì bị đối xử bất công, chúng đã cướp tỉnh Ninh Bình, bắt giam chủ tịch, bí thư, cùng trưởng ty công an làm con tin. Tướng Tô Ký được lệnh đem quân dàn xếp. Ông đã thuyết phục số thanh niên đó đầu hàng và hứa sẽ khoan hồng cũng như xem xét những khiếu nại của họ. Trên đường về gặp Phùng Thế Tài, Tài ra lịnh đem tất cả số thanh niên nổi loạn đó ra bờ sông Đoan Vĩ ở Phủ Lý bắn chết hết (trang 69 sđd). Tướng Tô Ký khiếu nại lên cấp trên, nhưng Bộ Chính trị ủng hộ quyết định cứng rắn của Phùng Thế Tài cho nên vị tư lệnh Quân khu Tây Bắc Tô Ký bị thất sủng và phải ngồi chơi xơi nước. Bây giờ, xét lại vụ việc này, nghi vấn đặt ra là Phùng Thế Tài cấp bực đại tá thấp hơn tướng Tô Ký mà sao lại dám qua mặt thượng cấp. Phải chăng đàng sau đại tá Phùng Thế Tài là ô dù bự của Bác? Phải chăng Tài đã nhận mật lịnh của Bác? Nếu đúng như thế thì Hồ Chí Minh chính là người chủ mưu sát hại các thanh niên miền Nam tập kết: Bác đã chơi trò ném đá giấu tay!
Cuộc Đại thanh trừng theo kiểu Killing field thứ hai xảy ra trên bờ sông Bạch Hạc ở Việt Trì làm mất mạng gần 200 tân binh gốc Hà Nội. Tên Bự giòi Phùng Thế Tài cũng là tác giả của vụ tàn sát này. Đó là thời điểm 1970, vào dịp Tết nguyên đán, số tân binh gốc Hà Nội đòi có công bằng trong khi thi hành nghĩa vụ quân sự. Chúng chiếm đoàn tàu hỏa và bắt nhân viên trên tàu làm con tin. Phùng Thế Tài nhận lệnh dàn xếp, và một lần nữa, hắn có dịp ra tay chém giết. Hắn dùng trực thăng đổ quân xuống phục kích ở ga Việt Trì tỉnh Vĩnh Phú, dùng loa kêu gọi tân binh xuống sân ga nếu đầu hàng thì sẽ tha tội. Các tân binh quá trẻ, vì dại dột mà làm liều, cảm thấy hối lỗi, xin ra hàng đều bị bắn chết sạch. Khi thuộc cấp kinh hoàng vì số người chết quá nhiều thì Tài đập gậy ba-toong xuống đất và quát (trang 70 sđd): “Đây là ý Trung ương. Khoan hồng con củ c... Đ.M. thiếu gì lính mà không bắn cha nó đi cái lũ nứt mắt đã vô kỷ luật này. Đ.M. thằng nào còn nói nữa tao cũng cho bắn luôn!”
Sáu năm sau ngày sát hại 200 thanh thiếu niên Hà Nội, đến 1976, Phùng Thế Tài được vinh thăng Thiếu tướng!
Ngon! Hồ Chí Minh ngon! (xin mượn chút văn phong của Lê Mai Lĩnh trong quyển Đứng ngồi không yên). Không ngon sao được vì Bác ta đã tạo được cho mình hình ảnh Cha già Dân tộc nhân từ bác ái, lại còn sang Liên Xô nhờ KGB giải phẩu thẫm mỹ độn má cho đầy, sửa mắt cú vọ thành loan nhãn, cấy thêm râu cho đầy đặn, cho có nét đẹp phúc hậu! (Trích Chân tướng Hồ Chí Minh của Cao Thế Dung, trang 106). Thế mà dưới tay Bác toàn là những Cây người khát máu bắn giết tàn sát không gớm tay, phục vụ rất đắc lực như Trần Quốc Hoàn, Phùng Thế Tài, và Lý Bá Sơ! Hồ Chí Minh chính là Giáo chủ sáng lập môn phái Ném đá giấu tay trong lãnh vực chánh trị.
Các đao phủ vô danh
Anh hùng vô danh thì được Dân tộc ngưỡng mộ và được ca tụng như bài thơ Anh hùng vô danh của Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy. Nhưng biết bao nhiêu đao phủ vô danh của Hồ Chí Minh không để lại tăm tích tên tuổi gì trong những ngày đầu kháng chiến khi Hồ Chí Minh phát động bạo trào “Giết Việt gian”. Rất to lớn như phần băng sơn chìm dưới mặt nước, biết bao nhiêu tội ác của Hồ Chí Minh vẫn còn ẩn tàng trong quên lãng và rất hiếm hoi trong hồi ký của vài tác giả nhân chứng.
Trong quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu của Phương Lan Bùi Thế Mỹ phát hành tại Sài Gòn ngày 5-1-1974, chúng ta tìm lại được dấu tích tàn sát tập thể của Hồ Chí Minh qua bàn tay của các đao phủ vô danh tiểu tốt như sau (trang 422 sđd):
“Sau cái chết của nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, trên con đường vào tử địa, còn lôi cuốn thêm cả trăm gia đình, họ bị “làm cỏ” tận gốc, vì tội ngưỡng mộ thần tượng Tạ Thu Thâu, vì cảm tình, tiếp rước Tạ Thu Thâu tại nhà…”
“Thời gian ở Hà Nội, nằm đợi sang Tàu, Thâu thường lên chiến khu Sầm Sơn, tới nhà Hà Tôn Thắng, và làng Đan Phượng, nhà của một người thợ in, thì sau đó cả làng, cả gia đình xa gần tiếp đón, ngưỡng mộ Thâu đều bị giết sạch sành sanh…”
“Tại Quảng Ngãi, gia đình chủ nhơn Bungalow là Hồ Đắc Di, và gần chục thanh niên cũng bị thanh toán “sạch cỏ” vì đã chứa chấp và giao thiệp cảm tình với nhà cách mạng Tạ Thu Thâu.”
Tác giả Phương Lan nhận xét rằng trong lịch sử sau nầy (trang 423 sđd), trong giai đoạn khơi mào độc lập, tự do, có lẽ phải viết lên toàn bằng máu, máu của triệu người dân vô tội, chết oan, trong cái chiến họa xâm lăng của Cộng sản…!
Bài ca vọng cổ có tên “Nguyễn Tường Tam”
Câu chuyện do Giáo sư Nhật Thịnh tường thuật trong tác phẩm viết về nhà văn Nhất Linh. Ở bìa quyển sách là tựa Chân dung Nhất Linh. Nhưng ở trang trong, tác giả Nhật Thịnh viết thêm “hay thân thế sự nghiệp Nguyễn Tường Tam”. Nhất Linh nhà văn nổi tiếng nhất trong nhóm Tự lực Văn đoàn tên là Nguyễn Tường Tam, ai cũng biết. Ở miền Nam, vào thời Đệ nhất Cộng hòa, các tác phẩm của Tự lực Văn đoàn được giảng dạy trong chương trình các lớp Trung học Đệ nhất cấp, nên học sinh đều biết như thế: nhà văn Nhất Linh tên là Nguyễn Tường Tam.
Vậy mà có người không biết Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam nên mới có chuyện (Trích trang 153 sđd). Câu chuyện xảy ra vào năm 1949 ở một làng thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Tác giả Nhật Thịnh tham gia kháng chiến và phụ trách huấn luyện lớp cán bộ địch vận. Vào một đêm trăng giữa khóa huấn luyện, sau phần kiểm thảo bài học, đến phần giúp vui tập thể. Một học viên đứng lên tự giới thiệu để ca một bài vọng cổ. Vào thuở đó, điệu hát vọng cổ là món văn nghệ quý hiếm độc đáo. Người học viên giới thiệu bài ca “Nguyễn Tường Tam” do anh sáng tác! Trong phần nói lối khởi đầu, tác giả trình bày gốc tích của Nguyễn Tường Tam, nào là “dòng dõi phong kiến, tổ tiên đều làm quan”, nào là “đỗ bằng cử nhân nhưng vì tính thích lêu lỏng chơi bời, Thực dân không dùng nên sinh ra bất mãn, v.v…” Sau mấy câu nói lối, bắt sang điệu vọng cổ, anh ta tiếp tục “Nguyễn Tường Tam là tên trùm phản động, tiêu biểu cho giai cấp trí thức tiểu tư sản lạc hậu, thối nát”. Đoạn kết của bài ca là lời hô hào đồng bào đừng nên mắc mưu tuyên truyền của bọn phản động đội lốt cách mạng mà Nguyễn Tường Tam là kẻ cầm đầu. Và sau cùng là lời xưng tụng HCM và đề cao cuộc cách mạng vô sản.
Khi hát xong, ai nấy đều vỗ tay hoan hô. Bài ca thành công rực rỡ, vì có kẻ lấy viết và sổ tay xin được chép lại. Tác giả Nhật Thịnh cho biết người ca sĩ đã từng là kép hát, sau làm thợ may, và lúc đó là đảng viên dự bị. Sau đó vài hôm, cũng vào một đêm trăng, Nhật Thịnh có dịp đi dạo ngoài cánh đồng với người cán bộ kép hát và bàn luận chuyện văn chương Nghệ thuật. Câu chuyện xoay quanh những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, nhất là mấy tác phẩm chính của Nhất Linh. Nhật Thịnh kể: “Quả nhiên, gã như xuất thần, say sưa, hoa chân múa tay tán thưởng từ nội dung đến văn chương của những tác phẩm như “Gánh Hàng Hoa”, “Nửa Chừng Xuân”, và nhất là “Lạnh Lùng”, “Đoạn Tuyệt”, và “Bướm Trắng”. Gã thao thao bất tuyệt…”
Trong câu chuyện dưới đêm trăng hôm ấy, gã nhất trí với Nhật Thịnh “Nhất Linh và Khái Hưng đã phá bỏ những lạc hậu, xấu xa, giả dối trong chế độ gia đình và xã hội cũ để tạo lập nên một xã hội mới theo một tinh thần mới trong đó con người được giải phóng và tự do hơn”.
Đến khi đó, Nhật Thịnh mới đặt câu hỏi:
- Theo đồng chí thì phá bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới cho thích hợp với sự tiến bộ của loài người, như thế có phải là cách mạng không?
Người cán bộ kép hát, đảng viên dự bị ấy, đáp không suy nghĩ:
- Thế đúng là cách mạng chứ!
Đêm khuya, trăng tàn, đến lúc chia tay, Nhật Thịnh ghé tai gã cán bộ bảo thầm:
- Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam đấy, đồng chí có biết không?
Nhật Thịnh kể tiếp rằng người cán bộ lặng người không đáp. Từ hôm ấy cho đến ngày mãn khóa học, gã trở nên ít nói, thỉnh thoảng nhìn trộm Nhật Thịnh với tất cả vẻ ngượng ngập. Còn tâm trạng Nhật Thịnh thì sao? Đúng là tâm trạng của một bậc thầy, một bậc giác ngộ chỉ biết thương yêu và tế độ, “không khinh gã cán bộ kép hát mà chỉ thương hại cho hắn là vì hắn đã không hiểu việc hắn làm, không biết hết những điều hắn nói”. Điều gây khổ nạn cho Dân tộc là những bậc thức giả như Nhật Thịnh thì như sao buổi sáng, mà “bầy đàn” người như gã cán bộ kép hát chạy theo cuộc “Kách mệnh khát máu của Hồ Chí Minh” thì nhiều như lá rụng mùa thu (“bầy đàn”, chữ của tác giả Vũ Thư Hiên trong Đêm giữa ban ngày).
Chuyện các Tổng bí thư
Những Cây người của Bác cũng biệt tài về khoa ăn nói. Hãy xem miệng lưỡi của một vài vị. Trong chuyến công du ở Pháp hồi năm 2000, trả lời một phóng viên của báo Le Monde, để chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng dân chủ và văn minh, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã trả lời: “Người Cộng sản Việt Nam không có ăn thịt người.” Câu trả lời của nhân vật số một của Đảng Cộng sản Việt Nam thật giống hệt chuyện tiếu lâm rẻ tiền khiến cho giới báo chí truyền thông Pháp phải phì cười và ban cho ông cái hổn danh là Pinochet VN!
Một câu chuyện khác, cũng dính dấp tới một Tổng bí thư tiền nhiệm. Vào thời điểm 1991, khi nhà văn nữ Dương Thu Hương phản tĩnh và viết bài Đảng phải biết ơn nhân dân chứ không phải chỉ có dạy nhân dân biết ơn Đảng, thì Bộ Chính trị phát điên lên. Lúc đó, ông Nguyễn Văn Linh là Tổng bí thư đã gọi Dương Thu Hương là “Con đĩ chống Đảng” và đã ra lịnh bắt giam trong sáu tháng (trích Việt Nam cần đổi mới thật sự của Võ Nhân Trí, trang 135).
Chuyện nhà văn nữ Nhã Ca: giặc đến nhà đàn bà phải đánh
Nhã Ca, nhà văn nữ hàng đầu của miền Nam đã hai lần được trao tặng Giải thưởng Văn chương cao nhất, cũng bị chửi giống như vậy. Nhã Ca quê ở Huế và bị kẹt ở đấy trong cuộc Tổng công kích tết Mậu Thân (1968) nên đã chứng kiến sự tàn ác khủng khiếp của Việt Cộng trong thời gian đó. Khi tập truyện ký Giải khăn sô cho Huế khởi sự đăng tải trên một nhật báo ở Sài Gòn, đặc công Việt Cộng đã gởi thư đe dọa, buộc nữ sĩ phải ngưng viết, nhưng nữ sĩ không nhượng bộ. Chỉ vì vậy cho nên đến ngày 3-4-1976, Nhã Ca bị bắt giam và bị kết tội bôi nhọ nhân dân, cản bước tiến của cách mạng. Nhà văn bị công an luân phiên hỏi cung nhiều lần, bị nhục mạ nhiều lần, và đây là một lời chửi đầy nhục mạ (trích quyển Quê hương bạn hữu tù đày của Trần Dạ Từ, trang 187):
“Chị Nhã Ca. Chị nghe kỹ đây. Thằng Mỹ, thằng Thiệu đang để lại ở Sài Gòn một triệu đĩ điếm. Một chị phụ nữ làm điếm, giỏi lắm chỉ ngủ được vài trăm đàn ông. Hừ. Thằng Khánh, thằng Kỳ bảo mỗi ngòi bút là một sư đoàn. Đánh đỹ ngòi bút như chị, chị ngủ với mấy sư đoàn? Đàn bà mà viết văn là làm đĩ. Chị biết chưa?”
Bị tên công an Việt Cộng thoá mạ bằng lời lẽ thô tục và đê tiện như vậy, nhà văn Nhã Ca nữ kiệt của miền Nam, dù thân xác bị tù đày, vẫn lấy trứng chọi đá, vẫn vùng lên đánh trả để xứng với truyền thống giặc đến nhà đàn bà phải đánh. Xin mời quý bạn xem văn phong và đòn đánh trả của nữ kiệt Nhã Ca: “Bình tĩnh. Tin tưởng. Tập thở cho đều. Con cái sẽ hưởng phần xứng đáng với cha mẹ chúng. Hãy xử sự xứng đáng. Phải thở. Thở đều nữa, trước khi nói. Phải nói thật thong thả, nhỏ nhẹ, lễ phép.”
Nhà văn nữ kiệt của miền Nam đã xử sự thật xứng đáng và tung đòn đánh trả rất đẹp mắt: “Thưa anh, tôi chưa biết Bác và Đảng anh minh ra sao. Tôi cũng chưa biết chính sách nhà nước nhân đạo thế nào. Nhưng tôi biết rõ điều này. Anh nghe nhé. Anh là thằng mất dạy! Mất dạy! Mất dạy!...”
Lời bàn thứ nhất: Đảng đã lập Đại học Công an ở thủ đô Hà Nội để đào tạo công an, nếu thật sự vị công an này mất dạy và nếu Đảng sợ công an làm mất lòng dân, thì xin Đảng nên cho cán bộ của mình trở về trường học thêm cho giỏi.
Lời bàn thứ hai: Với Nhã Ca, tuy giặc đã chiếm trọn miền Nam, nhưng giặc chưa vào nhà bà, lúc đó là thời điểm sau ngày 3-4-1976, với cái búng tay của bạo lực, Nhã Ca cùng cả trăm văn nghệ sĩ miền Nam bị bắt vào tù. Sau đây là chuyện giặc đã vào nhà và phá nhà một nhà văn nữ ở miền Bắc.
Giặc vào phá nhà Trần Khải Thanh Thủy
Ba mươi năm sau đó, ngày 27-10-2006, tại phường Đống Đa thủ đô Hà Nội, giặc đã thật sự vào nhà và phá nhà của nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy. Vào ngày hôm đó, vào khoảng 6 giờ chiều, vừa đón 2 cô con gái từ trường về nhà, thì nhà văn Thanh Thủy thấy ông Tổ trưởng Dân phố, ông Bí thư Đảng ủy, cùng ông Chủ tịch Phường mò đến. Nhà văn tưởng họ là người tử tế bèn mở cửa mời vào. Nhà văn không ngờ rằng khi họ ngồi chưa ấm chỗ thì cả trăm người gồm thanh niên trai tráng, phụ nữ, cựu chiến binh, thương binh tràn vào nhà. Nhà văn Thanh Thủy tường thuật (phỏng theo bài Trò chuyện cùng anh Lưu Ngọc Bang của chính nhà văn Thanh Thủy, VNN Website, đăng lại trên báo Việt Luận ngày 3-11-2007):
“...(Họ) quây kín cửa ra vào, cửa sổ, trèo lên giường, lên xe máy, la ó, đập phá... tất cả trăm con người nhâu nhâu vào... đòi tát vỡ mặt em với đủ các ngôn từ, giọng điệu, chửi bới em không tiếc lời, nào con đĩ chống đảng, nào đồ phản dân hại nước, nào bán nước buôn dân, tham tiền, phản động, làm tay sai cho đế quốc Mỹ v.v. và v.v... Cả hai vợ chồng em đều bị đánh. Em phải nhận mấy cái tát lật mặt nổ đom đóm mắt của mấy gã lực điền trai tráng (thực chất là đầu gấu do công an thuê), còn ông xã bị đập cả thanh gỗ vào sau vai và lưng, còn bị túm tóc lôi từ trên giường xuống đất khi cố tình che chắn cho vợ... Họ lấy chùm chìa khóa xe máy, cả chục thằng đi nguyên giày trèo lên giường đòi hành hung em nên giường bị sập, cửa sổ bị chúng dùng gỗ đập nát phần kính, chớp. Phần cánh bằng gỗ bên ngoài hiện tại hở toang hoác....”
Hai nữ sĩ Nhã Ca của miền Nam và Trần Khải Thanh Thủy của miền Bắc, mỗi người một tình huống khác nhau, xử sự mỗi người một cách, nhưng chỉ một dòng máu Việt, chỉ một trái tim Việt, chỉ một truyền thống Anh thư Trưng Triệu của Dân tộc Việt Nam. Đối diện với cả trăm côn đồ đầu gấu công an trá hình đang lên Cơn say Đảng và chìm trong Giấc mê Hồ, đang đập phá hung hăng (như đấu tố trong CCRĐ ngày nào), Trần Khải Thanh Thủy không thể dùng ngôn từ đối đáp như Nhã Ca, nên chọn cách trả đòn trong bài viết Trò chuyện cùng anh Lưu Ngọc Bang. Bị Đảng dồn tới đường cùng, nữ sĩ tự ví mình là một cô gái mảnh mai bị cả bè lũ đảng đè ngửa ra... cưỡng bức, kẻ giữ chân, người trói tay, người nhét giẻ vào miệng quyết bắt nữ sĩ phải câm miệng mới thôi. Nữ sĩ không thể dịu dàng bảo Đảng hãy buông vạt váy của mình ra như lời năn nỉ đáng yêu của cô thôn nữ ngày xưa: “Thôi thôi buông áo em ra. Để em đi bán kẻo hoa em tàn.”
Trong khi Nhã Ca chỉ đánh trả tên công an thẩm vấn: “Anh là thằng mất dạy”, thì Trần Khải Thanh Thủy đánh trả đòn bằng lời văn có uy lực như tiếng hét thẳng vào mặt Đảng, một tiếng hét như vang rền khắp Bắc Nam Trung bằng uy lực của cả Dân tộc, như nói thay cho Dân tộc:
“Mày là thằng khốn nạn, đểu giả nhất trên thế giới này. Chính mày làm tan nát ngôi nhà Việt Nam, bắt 3 triệu người phải xa xứ, tha hương, làm 850 nghìn người vùi xác nơi đáy biển, làm 78 trên tổng số 83 triệu người trong nước phải điêu đứng. Chính mày dâng đất, bán biển cho quan thầy Trung Hoa. Chính mày làm cho xã hội Việt Nam điêu tàn, tan nát, con cãi lại cha, trò chống đối thầy, người lương thiện ít hơn kẻ độc ác, gái ngoan ít hơn gái đĩ, điếm hóa đến cả trẻ thơ...”
Giặc đã vào nhà và giết người
Nhà cửa bị phá hoại còn có thể sửa chữa, người bị đánh có thương tích còn có ngày bình phục, cơn khiếp đảm rồi sẽ được xoa dịu và xuôi trôi theo ngày Trời tháng Phật và Bạn hiền khắp nơi, Chị Trần Khải Thanh Thủy ơi! Biệt nghiệp của mỗi chúng ta và cộng nghiệp của Đất nước còn quá nặng. Ở nơi hải đảo Úc Châu, khi viết hàng chữ này, tôi không ngăn được dòng lệ và xin gởi trọn niềm thương cảm của tôi đến Anh Chị và hai cháu gái. Xin chị hướng về phương Nam thân yêu, ở tỉnh Đồng Tháp, có một ngôi nhà giặc đã vào, phá hoại và gây án mạng vô cùng thảm thiết, để cùng nhau ôm khóc và cảm thương cho Dân tộc!
Ngôi nhà đó của ông Nguyễn Văn Bạo, ở ấp Long Hòa, xã Long Thuận, quận Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông Bạo là thành viên đoàn Thanh niên Phật giáo Hòa Hảo. Theo bản tin của Văn phòng Phật giáo Hòa Hảo ở Hoa Kỳ (Bán Tuần báo Việt Luận ở Úc Châu đăng lại ngày 15-8-2006), thì ngày 25 tháng 2 năm Bính Tuất, nhà ông Bạo tổ chức tưởng nhớ ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ bị Việt Minh Cộng sản ám hại (xin nhắc lại: ngày 16-4-1947, Việt Minh Cộng sản mời Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ đi họp và ám hại Ngài). Trong lúc họ đang làm lễ thì công an xông vào nhà xô ngã bàn hương án, một công an dùng chân đạp lên ngực bà Nguyễn Thị Gấm, 50 tuổi, em ông Bạo, làm cho bà đứng tim và tắt thở.
Phân biệt 3 tình huống: thứ nhất giặc chưa vào nhà của Nhã Ca, thứ 2 giặc đã vào và phá nhà của Trần Khải Thanh Thủy, và tình huống thứ 3 giặc đã vào nhà của ông Nguyễn Văn Bạo và giết em gái ông là bà Nguyễn Thị Gấm, phân biệt như vậy chỉ là sai thôi. Sự thật là Giặc Cộng sản đã vào ngôi nhà Việt Nam từ thật lâu rồi, đến bây giờ thì giặc muốn vào nhà ai thì vào, giặc muốn phá nhà ai thì phá, giặc muốn cướp của ai thì cướp, giặc muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ tù, Đảng đã biến cả Đất nước thành Nhà tù khổng lồ rồi. Các nhà tù nhỏ như trại Thanh Cẩm hay trại Cổng Trời, Đảng chỉ dùng để làm phương tiện gieo khủng bố khi bắt giam những người yêu nước thương dân đấu tranh cho tự do, dân chủ, và nhân quyền.
Cây người Mai Trung Sơn
Chuyện đời đầy oan nghiệt! Học sinh Mai Trung Sơn thụ nhận nền học vấn ở ngôi trường Bồ Đề Nguyên Thiều do công sáng lập của Hòa thượng Thích Huyền Quang. Rồi do được bón phân Hồ Chí Minh, mọc lên Cây người Mai Trung Sơn hung hăng tàn bạo! Cảnh tang thương biến đổi đến đau lòng đứt ruột. Cơ ngơi Tu viện Nguyên Thiều gồm có trường trung học Bồ Đề, Phật học viện quy tụ 300 tăng sinh, Chánh điện uy nghiêm giữa rừng bạch đàn thâm u thơ mộng, tượng Phật Thích Ca cao 20 mét, tượng Đức Quan Âm bên bờ hồ sen bát ngát, một rừng huệ trắng tinh khiết quanh hồ sen, một hoa viên trăm loại kỳ hoa dị thảo do công đức cúng dường của Phật tử bốn phương, khu trồng xoài tiếp giáp với hàng chục dãy nhà phụ thuộc cho 300 vị tăng sinh làm nơi tu tập và sinh hoạt…
Rồi Cách mạng của Hồ Chí Minh thành công. Cơ ngơi Tu viện Nguyên Thiều do công sáng lập và khai phá của Hòa thượng Huyền Quang và Phật tử đã biến thành cơ sở của Đảng như trường Chi cục Thống kê Trung ương II, trường Bổ túc Văn hóa Liên khu V, Xí nghiệp Chế biến 3/2, Xí nghiệp Chế biến xút. Cách mạng thành công thì Cây người Mai Trung Sơn do Hồ Chí Minh vun trồng đường đường là Trưởng Công an xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Nghĩa Bình.
Hết oan nghiệt này lại đến oan nghiệt khác! Một buổi chiều u ám, mùa đông năm 1979, Công an trưởng Mai Trung Sơn, chỉ huy một tiểu đội du kích có võ trang, chận đường lục soát và hùng hổ áp tải đuổi Hòa thượng Thích Huyền Quang ra khỏi khu vực Dốc Eo, trên đường vào Tu viện Nguyên Thiều mà nay là cơ sở của Đảng. Mai Trung Sơn lạnh lùng cương quyết từ chối yêu cầu của Hòa thượng Huyền Quang, dù ngài chỉ muốn vào thăm nơi chốn cũ và nhìn thoáng qua trong chốc lát!
Câu chuyện về Mai Trung Sơn trên đây được trích từ bài Tu viện Nguyên Thiều của tác giả Nguyễn Mạnh An Dân đăng ở nguyệt san Làng Văn (số120, tháng 8-1994). Người viết xin tri ân tác giả Nguyễn Mạnh An Dân, chỉ ba trang ngắn ngủi trong Làng Văn, tác giả đã nêu lên một tệ nạn vô cùng lớn lao của Đất nước: Đảng Cộng sản CƯỚP tài sản của Phật giáo làm của mình! Tác giả An Dân viết tiếp rằng đường lên Dốc Eo dẫn vào một khu đất đẹp vốn là tư sản của dòng họ Bùi cố cựu. Vào năm 1961, cư sĩ Bùi Hàng, lúc đó giữ chức chủ tịch xã Phước Hiệp, đã cúng dường khu đất rộng lớn của gia tộc để xây dựng Tu viện Nguyên Thiều. Đến mùa đông 1964, chiến sự bùng nổ và lan rộng các quận An Nhơn, Tuy Phước tỉnh Bình Định. Dân chúng khắp nơi tìm chỗ an toàn để lánh nạn Cộng sản. Trường Bồ Đề của Tu viện, ban ngày là lớp học, ban đêm là chỗ tạm trú cho người dân di tản. Nhưng chốn thiền môn và học đường, Việt Cộng nào có tha! Một đêm trong mùa loạn đó, chúng kéo về Tu viện và quăng lựu đạn vào trường Bồ Đề sát hại xã trưởng Phước Hiệp và cũng là một cư sĩ đã hết lòng góp sức xây dựng Tu viện Nguyên Thiều: cư sĩ Bùi Hàng. Cùng chết với ông là mấy chục thường dân tỵ nạn khác! Ngôi trường Bồ Đề nguyên thủy của Tu viện hoàn toàn đổ nát!
Thí chủ Bùi Hàng, người cúng dường khu đất thì đã bị Việt Cộng sát hại. Tu viện Nguyên Thiều do công sáng lập và xây dựng của Hòa thượng Thích Huyền Quang thì đã bị Việt Cộng chiếm đoạt. Đến bây giờ, nhớ lại lời nói trịnh trọng của Hồ Chí Minh: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng bằng mười năm xưa!” Than ôi! Đúng là lời nói của Tên hề Hồ Chí Minh!
Chuyện Phật đất và Phật gỗ
Nhân đây, người viết nhớ lại câu chuyện Phật khóc của học giả Hoàng Văn Chí, sơ lược như sau. Có hai tượng Phật, một tượng bằng đất và một tượng bằng gỗ. Hai vị biết Trời sắp làm cơn lụt lớn. Vị Phật gỗ nói với vị Phật đất: “Tôi thương anh quá! Vì thân anh bằng đất, gặp cơn lụt này, thân anh sẽ rã ra thành đất. Thân tôi bằng gỗ, sẽ nổi trên mặt nước, trôi đến vùng đất khác, dân chúng sẽ vớt tôi lên để thờ lại”.
Vị Phật đất cảm thấy buồn, ngẫm nghĩ hồi lâu mới trả lời: “Không đâu anh ạ! Nghĩ kỹ lại, anh mới khổ hơn tôi. Thân tôi tuy bằng đất, gặp nước sẽ rã ra thành đất. Nhưng dân vùng này là Phật tử, khi hết lụt, dân sẽ lấy đất nắn tôi lại thành Phật và thờ tôi lại như xưa. Thân anh sẽ trôi nổi đến vùng đất lạ, rủi gặp vùng không có Phật tử, dân không biết anh là ai, anh sẽ sống kiếp lưu đày khổ sở lắm!”
Vị Phật gỗ nghe đến đấy bỗng khóc ròng.
Kể chuyện Phật đất Phật gỗ để ví von với việc lưu đày và việc ở lại quê hương như học giả Hoàng Văn Chí thật là tuyệt vời. Có phải vị Phật đất là Hòa thượng Huyền Quang gặp phúc duyên được ở lại quê nhà? Còn Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong vai Phật gỗ phải sống kiếp lưu đày khổ sở? Theo chuyện kể của học giả Hoàng Văn Chí thì như vậy: vị Phật gỗ Nhất Hạnh vì bị trôi nổi nơi xứ lạ quê người nên mới bật khóc ròng! Nhưng sự thật không phải vậy! Việc đời đảo điên điên đảo đến não lòng! Khóc ròng là vị Phật đất Thích Huyền Quang vì ngài bị lưu đày ngay trên chính quê hương của ngài. Thân xác thì bị lưu đày quản chế, Tu viện Nguyên Thiều cũng bị cướp đoạt. Còn vị Phật gỗ Thích Nhất Hạnh khi thì Làng Mai ở Pháp, lúc thì Lộc Uyển ở Hoa Kỳ, lại nhiều phen “mặc áo gấm về làng”! Trời làm một cuộc đảo điên! Mà có phải Trời làm không? Không! Không phải Trời làm đâu! Chính Hồ Chí Minh một tay đã đảo lộn sơn hà để gây ra cuộc tang thương biến đổi đó!
Giặc trước cổng chùa Quang Minh Tự
Như một tích tuồng cải lương lâm ly gay cấn có kẻ ngay người gian, có kẻ thiện người ác, khán giả là cả Dân tộc, và sân khấu là cổng chùa Quang Minh Tự ở An Giang.
Trong chùa, tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm và 20 tu sĩ khác đang ngồi thiền. Trước cổng chùa, 80 công an Việt Cộng mặc thường phục bao vây đêm ngày, chờ đêm đến liệng đá phá rối.
Thương đồng đạo bị bao vây bỏ đói, 30 tín đồ PGHH mang gạo và thức ăn, xin phép nhà cầm quyền địa phương vào thăm và tiếp tế, nhưng công an nhất định không cho vào.
Rồi công an xông vào đánh đập các tín đồ, kể cả những em bé gái dưới 14 tuổi, và còng tay ông Trương Văn Thức và ông Nguyễn Châu Láng bắt đưa về ấp Long Hòa, thuộc xã Long Điền A, quận Chợ Mới, An Giang. Được tin khẩn đồng đạo bị áp bức ở quê nhà, Ban Trị sự Trung ương PGHH tại hải ngoại lập tức thông báo với ông Marc Forino, cố vấn chánh trị tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ông Forino cho biết ông rất quan tâm về chuyện nầy và có thông báo với tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội. Bản tin được tường thuật đầy đủ do tuần báo Thời Báo ở Melbourne, (số 269 ngày 26-11-1902), người viết chỉ xin trích sơ lược cho câu chuyện được ngắn gọn.
Dân tộc Việt Nam thân thương ơi, câu chuyện trước cổng chùa Quang Minh Tự chỉ có vậy! Chuyện nhỏ ở thế gian mà người thế gian không biết dàn xếp sao cho êm đẹp! Nhưng “Trời cao có mắt”, rốt cuộc rồi sẽ “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”! Viết tới đây, lòng thương cảm trào dâng, người viết đã khóc, cố gắng ngăn mà sao nước mắt cứ mãi tuôn trào. Thương cho các tín đồ PGHH vốn là dân quê chân chất và thương cho Dân tộc yếu hèn, và lại thương cho một phần nhỏ của Dân tộc hung tàn ngu muội lầm đường lạc lối! Xin nguyện cầu Hồn thiêng Sông núi hộ trì cho Đại khối Dân tộc hòa hợp trong đạo tâm “ở hiền gặp lành” để nêu cao và làm rạng danh Tình nghĩa Đồng bào một mẹ trăm con của Việt Tộc trên quả địa cầu này!
Tâm đạo sáng trong cơn khói lửa
Giặc Cộng sản muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ tù, đến trẻ em năm sáu tuổi cũng bị bắt bỏ tù! Trong tác phẩm Dòng sông văn hóa do Tập hợp Đồng Tâm Úc châu xuất bản năm 2000, tác giả Kim Bằng, cựu tù nhân học tập cải tạo ở trại Suối Máu, đã viết về chuyện Hai chị em 11 tuổi và 6 tuổi bị kết tội chống phá Cách mạng và chuyện Ba tâm đạo sáng trong cơn khói lửa, tuy hai mà một, chỉ là một câu chuyện thật bi hùng. Lúc đó là năm 1978, khi chiến trường Cam-pu-chia sôi động, tác giả Kim Bằng được đưa từ trại Bù Loi về Suối Máu và tại đó, anh đã gặp ba người bạn tù trẻ Nguyễn Văn Mạnh, Vũ Ngọc Văn, và Phạm Văn Tiến, mà anh bảo đã gặp rồi thì khó quên. Câu chuyện như sau (Trích Dòng sông văn hóa, trang 148):
“Cả ba anh đã vượt ngục từ một trại tù thuộc tỉnh Phước Bình, không may bị bắt lại và đưa về đồn biên phòng sát biên giới Miên Việt. Vừa tới đồn biên phòng, ba anh bị một trận đòn hội chợ tả tơi hoa lá. Trận đòn hội chợ tạm ngưng khi có hai em nhỏ bị dẫn tới.
Hai em nhỏ đó là hai chị em sống ở vùng kinh tế mới gần đó. Con chị mới chừng 10 hoặc 11 tuổi, đứa em trai 5,6 tuổi. Đứa em trai bị lũ trẻ con cán bộ hiếp đáp đánh đập, con chị chạy ra bênh vực. Thế là hai đứa nhỏ bị khép tội chống phá Cách mạng, dám chống lại con em cán bộ, chống lại Đảng, chống lại nhân dân. Và bị đưa về đồn biên giới cho bộ đội xử lý.”
Kim Bằng thuật tiếp rằng lũ bộ đội lấy ra mấy cái roi mây lớn và ra lệnh cho ba anh phải đánh hai em bé, phải đánh cho nát đít nếu ba anh muốn khỏi bị đòn. Cả ba anh khảng khái khước từ. Anh Mạnh nói: “Hai đứa bé vô tội, chúng tôi không thể đánh chúng nó một roi. Các anh muốn làm gì chúng tôi thì làm!”
Ba vị tâm đạo sáng không khứng vâng lời Cách mạng, thì bị Đảng trừng phạt ra sao, tác giả Kim Bằng thuật tiếp: “Bọn bộ đội trói ba anh vào ba cột nhà. Từ xa chúng lấy thế chạy tới dùng hết sức bình sinh giáng báng súng vào ngực ba anh. Xương sườn cả ba anh gãy rắc rắc. Một thằng bộ đội lấy cây lồ ô chẻ một đầu cho tõe ra, và quất túi bụi vào mặt Vũ Ngọc Văn. Miệng anh Văn biến thành một miếng thịt bầy nhầy nát bét. Nguyễn Văn Mạnh có bộ râu quai nón khá rậm. Một thằng bộ đội khác tạt một lon xăng lên râu anh và châm lửa đốt. Lửa cháy bừng bừng, mùi da thịt cháy khét lẹt”.
Khi tác giả Kim Bằng gặp ba vị tâm đạo sáng ở trại Suối Máu thì “…vết thương ở những mảnh xương sườn gãy của họ vẫn chưa lành. Trời lạnh, ba anh vẫn nằm rên rỉ. Môi anh Văn vẫn còn vết tích của trận đòn thù.”
Tác giả Kim Bằng nhắc lại lúc còn là một cậu bé 12 tuổi học lớp Nhất trường Nguyễn Du ở Hà Nội, cậu rất thích thơ và thích nhất môn tập đọc. Về thơ thì cậu bé Kim Bằng thích nhất bài Anh hùng vô danh của Đằng Phương. Đến kỳ thi Đệ nhị Lục cá nguyệt về môn tập đọc, cậu bé Kim Bằng ước ao được thầy cho đọc bài thơ đó. Nhưng cậu không được “trúng tủ”, thầy cho cậu đọc một đoạn trích trong cuốn Ngục trung thư của cụ Phan Bội Châu. Tuy vậy, cậu bé Kim Bằng cũng đọc rất xuất sắc, theo lời diễn tả của tác giả sau này: “Nhưng vừa cất tiếng đọc, tôi bị cuốn hút vào những gì cụ Phan viết. Dần dần tôi như muốn uống từng câu cụ viết, nuốt từng lời cụ viết. Máu nóng bừng bừng lên mặt. Tôi sôi nổi, uất ức, phẫn khích, đau xót với những gì cụ viết về những hành động dã man tàn ác của người Pháp thời Pháp thuộc đối với người mình. Tôi vừa đọc vừa khóc, xúc động xen lẫn phẫn khích, nước mắt chảy giàn giụa đầy mặt. Có những lúc nấc lên rồi lại đọc tiếp. Khi đọc hết bài, tôi ngửng đầu lên, tay chùi má. Tôi nhìn xuống lớp. Lạ lùng thay tôi thấy cả chục người bạn học cũng đang khóc như tôi.”
Lời bàn: Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện có bài thơ Một tay em trổ kêu gọi cả thế giới hãy nhìn vào Ngục Tù Việt Cộng của Hồ Chí Minh:
“Thế giới ơi, ngươi có thể ngờ
Đó là một tù nhân tám tuổi!
Trên bước đường tù tôi rong ruổi
Tôi gặp hàng ngàn em bé như em!”
Người tù tám tuổi của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, có cả hàng ngàn người! Người tù của tác giả Kim Bằng, chỉ năm, sáu tuổi! Ngay đứa con của Bác là Nguyễn Tất Trung lúc vừa được vài ba tháng tuổi chưa thôi nôi đã mồ côi mẹ vì người mẹ Nông Thị Xuân đã bị Bác ra lịnh giết rồi! Lại còn chuyện một cán bộ Việt Cộng móc nối với Nhà Bảo sanh Từ Dũ ở Sài Gòn lấy thai nhi của những bà mẹ phá thai đem về bằm trộn với bo bo để nuôi heo! Câu chuyện này cũng do tác giả Kim Bằng ghi chép (trang 53) trong quyển Khơi lại nguồn văn hóa nhân bản, do Bán Tuần báo Việt Luận ở Úc châu xuất bản. Như vậy mà Hồ Chí Minh đã sai khiến Trần Dân Tiên (là chính Bác) tự ca ngợi mình những lời chỉ đáng vất vào sọt rác lịch sử: “Đối với nhi đồng tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn.” Ôi! Tội ác của Hồ Chí Minh! Một chế độ tàn ác vô nhân nhất trong lịch sử loài người!
Công an nói: “Miệng tao là pháp luật”
Sau đây là vài bản tin thông thường được đăng tải trên báo hàng ngày, nhưng nếu góp nhặt lại sẽ thành quyển sử dày ghi chép Tội ác của Việt Cộng lưu truyền cho đời sau. Trường hợp nhà Luật sư trẻ Lê Chí Quang, tác giả bài viết giá trị Hãy cảnh giác Bắc Triều. Ngay tại thủ đô Hà Nội, Luật sư Lê Chí Quang bị bắt lên đồn công an xét hỏi về tội liên hệ với Hội Nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và Nhà nước chống tham nhũng (hội nầy do hai ông Phạm Quế Dương và Trần Khuê xin thành lập này 2-9-2001). Hãy đọc một đoạn trong đơn tố cáo của Luật sư Lê Chí Quang về vụ việc này: “Cuộc thẩm vấn chỉ xoay quanh vấn đề Hội chống tham nhũng, nhưng tôi bị giữ tại cơ quan công an 3 giờ. Tôi hết sức bất bình vì thái độ của các công an viên, đặc biệt là anh Tâm. Anh này có thái độ vô cùng xấc xược và vô văn hóa đến mức không tưởng nổi. Lúc thả tôi, Tâm nói:
- Tao tha cho mày vì mày ốm yếu, chứ không tao đã bắt mày rồi. Nhưng tao cấm mày ra khỏi nhà.
- Có văn bản pháp luật nào cấm tôi ra khỏi nhà không?
- Tao không cần văn bản nào cả.
- Vậy là văn bản miệng à?
- Đúng. Miệng tao là pháp luật!
- Vậy thì tôi vẫn cứ ra khỏi nhà nếu tôi muốn.
- Tao sẽ bắt mày ngay nếu mày ra khỏi nhà, mày đừng thách tao!”
Lời bàn: Anh công an Tâm ỷ mình là công an nên ăn nói phách lối ngang ngạnh bảo miệng tao là pháp luật. Thật ra chế độ đã cung cấp cho công an đủ phương tiện để đày đọa Dân tộc. Ngày 14-4-1997, Võ Văn Kiệt lúc đó là Thủ tướng, đã ký Nghị định 31/CP cho phép quản chế hành chánh (tức bị ở tù tại gia) đến 2 năm mà không cần pháp lịnh của tòa án. Do nghị định này, nhà nước Cộng sản đã biến tất cả ngôi nhà của người dân thành nhà tù, biến người chủ nhà thành tù nhân trong chính ngôi nhà của mình, biến Đất nước Việt Nam thân yêu thành Nhà tù khổng lồ, và xử dụng vô số công an để canh giữ nhà tù khổng lồ đó làm tiêu hao biết bao nhiêu công quỹ là tiền thuế của người dân đóng góp. Trên 40% kinh phí quốc dân dùng để nuôi công an, vì chúng là lực lượng đàn áp Dân tộc để bảo vệ Đảng cho nên được chế độ trả lương hậu nhất!
Công an giả làm Dân
Một câu chuyện khác giữa công an ngụy trang làm dân và nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt. Vào cuối năm 1988, cùng với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc thực hiện một chuyến đi xuyên Việt, từ Đà Lạt, qua các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội nhằm vận động trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh đòi tự do dân chủ. Hành động đấu tranh can cường chống bạo quyền Cộng sản của nhóm Đà Lạt này như tiếp nối truyền thống của nhóm Nhân văn Giai phẩm ở Hà Nội 22 năm trước, sự việc này làm nhà thơ Bùi Minh Quốc bị khai trừ khỏi Đảng và mất chức Tổng biên tập tờ Langbian. Ông bị Đảng trù dập và nhân sự việc ông Hoàng Minh Chính điều trần trước Hạ viện Mỹ về tình trạng mất nhân quyền ở Việt Nam, Đảng cho công an giả làm dân thường xuyên chửi vào máy điện thoại di động những lời lẽ thật tục tĩu: “Mày có muốn đi Mỹ với thằng Chính để liếm đít Mỹ tao cấp visa cho!” hoặc “Thằng Chính bị ăn đòn, mày có kinh không? Bọn phản bội chúng mày sẽ còn lãnh đủ con ạ!”
Lời bàn: Tên công an này chưa được trau dồi đúng nghiệp vụ như Bác Hồ của hắn. Đã giả làm dân mà lại bảo Bùi Minh Quốc: “Mày muốn đi Mỹ tao cấp visa cho”, dân mà sao có quyền cấp visa. Đúng là miệng lưỡi của nhà nước. Đúng là giấu đầu lòi đuôi! Ăn vụng không biết chùi mép! Ném đá mà không biết giấu tay như Bác Hồ của hắn!
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17
Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử