lịch sử việt nam
- Cuộc Chiến Tranh Hồ chí minh Đánh Dân Tộc Việt Nam Tập 2 -
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17
Nhóm Tâm Việt Úc Châu Biên Khảo
(tái bản có sửa chữa)
Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010
MỤC LỤC
CHƯƠNG 4
CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH (tt) trang 05
CHƯƠNG 5
NHỮNG CÂY NGƯỜI HỒ CHÍ MINH TRỒNG 22
CHƯƠNG 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 50
CHƯƠNG 7
HỒ CHÍ MINH, CON VẸT CỦA STALIN 80
Lời giới thiệu (tiếp theo) của Khối 8406
Rồi để tiếp tục công trình của Lãnh tụ (đánh phá hầu nô dịch Dân tộc), đồng đảng của ông đã ngụy tạo ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” sau khi toàn bộ lý thuyết của Mác, Lênin, Stalin đã hoàn toàn bị phá sản ở Liên xô và Đông Âu các năm 1989-1991 (ch. 6). Thật ra, HCM chỉ là con vẹt của Stalin (ch. 7), hoàn toàn lặp lại lời nói và hành động, lấy lại phương sách và mục tiêu của tên Đồ tể khát máu này. Cả đời ông ta chỉ biết theo gương Stalin trong việc đối xử với nhân dân lẫn đồng chí. Cụ thể là qua cuộc Cải cách ruộng đất, vụ Nhân văn Giai phẩm, vụ Xét lại chống đảng, cuộc Tàn sát Mậu Thân… Thế nhưng, với bản chất gian manh, HCM luôn ném đá giấu tay (ch. 8), đứng đàng sau mọi hành vi bạo lực của đồng đảng và đồ đệ (như bán cụ Phan Bội Châu, giết bà Cát Hanh Long, tàn sát mọi tổ chức quốc gia cùng chống ngoại thù chung của Dân tộc…), ứng xử vô cùng tàn ác mà bao giờ cũng tỏ ra đạo đức nhân bản, thậm chí trong cả bản Di chúc cuối đời. Là kẻ đã đi hết biển (ch. 9), bôn ba khắp nơi hải ngoại như bao nhà cách mạng đương thời, Hồ Chí Minh và đồng đảng đã chỉ đem về cho Tổ quốc, du nhập vào đất nước một chủ nghĩa sai lầm, một chế độ phi nhân và một chính đảng tàn bạo. Tóm lại, ông ta chỉ là một chính trị gia tồi tệ (ch. 10), thay vì cai trị cho minh chính, theo vương đạo, đem lại hạnh phúc no ấm cho toàn dân, an vui và thăng tiến cho đồng bào, thì ngược lại chỉ biết thống trị theo bá đạo, toàn trị độc tài độc đảng, dẫn đến bao thảm họa cho Tổ quốc và Dân tộc.
Nay nhân cái gọi là “kỷ niệm 150 năm sinh nhật của Hồ Chủ tịch”, chúng tôi phổ biến tài liệu này không ngoài mục đích phơi bày bộ mặt phản dân hại nước của tay Tội đồ Dân tộc số một đó. *Khối 8406*
tiếp theo
Vũ Hạnh tác giả bài “Mặt đối mặt với Nhân dân”
Đến năm 1990, sau 15 năm dưới sự cai trị độc tài của Đảng Cộng sản, nhà văn Vũ Hạnh có viết một bài rất đặc sắc nhan đề Mặt đối mặt với Nhân dân. Bài đó được dịch ra Pháp ngữ và đăng trên tờ Nouvelles de Moscow, một tờ báo khuynh hữu ở Mạc Tư Khoa. Một phần của bài đó là bản photocopy với chữ viết tay của Vũ Hạnh được đăng tải trong quyển Bút ký Irinacủa Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ (Tập 1, trang 48). Xin mời quý bạn đọc:
“Một vài suy nghĩ về con người và xã hội Việt Nam hiện nay. Sau ngày giải phóng 15 năm, nhiều người Việt Nam đánh giá về Đảng lãnh đạo theo hai cách nhìn khác nhau: một là Đảng đã có công tập họp toàn dân chống những kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh để giành Độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Tuy nhiên, về mặt lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã thất bại, làm cho đa số dân chúng nghèo đi, chịu nhiều bất công, phiền hà, đất nước thua kém các nước láng giềng từ xưa được xem là chậm tiến nhất vùng Đông Nam Á. Cách thứ hai có vẻ quyết liệt hơn nhiều khi khẳng định rằng không thể tách rời giai đoạn cứu nước với dựng nước, vì giai đoạn đầu là tiền đề cho giai đoạn sau. Sự hi sinh to lớn kéo dài suốt mấy mươi năm để chỉ đem lại nghèo đói, bất công thì hi sinh ấy có ý nghĩa gì? Bây giờ người ta bắt đầu hoài nghi chủ nghĩa xã hội, hoài nghi học thuyết Mác Lê...”
Bài viết phân tích rất sâu sắc và rành rẽ cuộc khủng hoảng không lối thoát ở Việt Nam và quyết liệt đòi hỏi chế độ phải thay đổi thực sự và toàn diện, trong đó có đoạn nói: “Vì sống bằng ngụy biện, người ta (tức là đảng Cộng sản) lại dùng ngụy biện để minh chứng rằng các biểu hiện xấu chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Nhưng hiện tượng lập lại mãi cũng là bản chất. Hoặc bảo: đó là những sự suy thoái nhất thời, nhưng cái nhất thời ấy được đo bằng suốt chiều dài chế độ. Một cách giải thích khá quen thuộc khác là do kẻ thù đế quốc phá hoại, nhưng sao lại để kẻ thù phá hoại? Và sao chúng lại phá hoại dễ dàng như vậy?”
Theo dõi phong trào nhân dân các nước Đông Âu nổi lên bằng những cuộc biểu tình ôn hòa, xử dụng quyền Dân tộc Tự quyết và thực hiện cuộc Cách mạng nhung không đổ máu để xây dựng nền dân chủ và loại trừ chế độ CS, nhà văn Vũ Hạnh đã theo quan điểm duy tâm mà cho rằng: “Đó là điều cần phải xảy ra, đó cũng là lẽ nhân quả ở đời”.
Và sau cùng trong đoạn kết nhà văn viết:“Câu trả lời thực sự cho V.N. không phải ở nơi Liên Xô, Trung Quốc, hay nước Đông Âu nào khác mà là ở tại V.N. Và chỉ khi nào những người lãnh đạo V.N. thấy rõ về xã hội mình và có can đảm sửa đổi những tệ trạng gây nên cho những con người V.N. bằng những phương thức hoàn toàn phù hợp với người V.N., thì chỉ lúc ấy quần chúng mới khỏi phải dùng đến sự thô bạo để giành lấy quyền định đoạt cho số phận mình.”
Vũ Hạnh chối bỏ bài viết của mình
Câu chuyện về nhà văn Vũ Hạnh bắt đầu bằng chuyến viếng thăm thành phố Sài Gòn của Irina Zisman, một phụ nữ Nga có chồng là người Việt Nam. Bà học tiếng Việt ở Mạc Tư Khoa, nói tiếng Việt thật lưu loát và viết văn Việt thật điêu luyện như bất cứ một nhà văn Việt Nam tài ba nào. Trong tác phẩm Bút ký Irina, bà kể lại rằng trong chuyến viếng thăm Sài Gòn vào cuối tháng 5 năm 1991 (xin chú ý: tác giả Irina viết là Sài Gòn chớ không viết Thành phố Hồ Chí Minh!), bà được mời đến Hội Nhà văn và đã gặp Vũ Hạnh ở đấy. Bỏ ngoài chuyện được đãi trái măng cụt và bàn luận về truyện Kiều với Vũ Hạnh, khi ra về, bà có mời Vũ Hạnh lại chỗ bà ở để nói chuyện cho được tự nhiên, nhưng ông gạt đi: “Nếu như vậy, cấp trên sẽ hiểu nhầm.”
Trong một ghi chú của Irina, thì sự hiểu lầm bắt đầu từ một bài viết ký tên Vũ Hạnh đăng trên tờ báo Tin tức Mátxcơva (xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Pháp ở thủ đô Liên Xô). Điều đáng tiếc là chính Vũ Hạnh đã hiểu nhầm về cái tên Vũ Hạnh như thế! Về biến cố nầy, Irina viết tiếp:“Tôi nghĩ về các văn sĩ của thời đại chúng ta. Chúng ta, những người chỉ biết đọc lại các tác phẩm của những người xưa. Tôi nghĩ về tấn bi kịch của nhà văn luôn luôn giấu kín suy nghĩ của mình, về các nhà báo viết bài không phải để đăng báo. Về tấn bi kịch của các văn nghệ sĩ đã được cởi trói nhưng vẫn có cấp trên. Và về những cấp trên chuyên môn hiểu nhầm.”
Đó là lời bình rất phớt nhẹ của Irina về việc Vũ Hạnh chối bỏ bài viết của mình, lời phê bình phớt nhẹ đến nỗi tưởng chừng như nó không chạm đến ai cả. Nhưng với Nguyễn Ngọc Bích thì không. Trong lời đề bạt cho quyển Bút ký Irina (Tập 1 trang 1600), ông tung ra lời phê rất sâu sát như sau. Xin mời quý bạn đọc kỹ:
“Một bài viết như vậy, nếu Vũ Hạnh có can đảm nhận lãnh trách nhiệm của mình -- như Chân Tín đã làm, như Nguyễn Ngọc Lan cũng có can đảm xác nhận -- thì ông đã chuộc được phần nào những phản phúc mà ông đã dành cho bạn bè ông khi Cộng sản vào thành. Đằng này, ngờ đâu sau khi chị Irina đã cất công dịch sang tiếng Nga cho đăng báo Nga thì Vũ Hạnh ở nhà vội phủ nhận mình là tác giả bài báo. Để cho Hà Nội có thể ngụ ý là chị Irina đã bịa đặt ra bài báo, chứ làm gì có một bài báo như vậy. (Thành thử trong Bút ký, chị đã phải cho in phóng ảnh cả tuồng chữ của Vũ Hạnh để anh khỏi chối được mãi). Thì ra, anh không hơn gì nhân vật mô tả trong Ly Thân của Trần Mạnh Hảo, chỉ giỏi nghề đón gió -- và khi thấy gió ngược chiều thì vội vã tháo bỏ hết cả nhân phẩm của mình để lộ nguyên hình là một thằng hèn.”
Chúng ta hẳn biết chỉ có một Vũ Hạnh mà thôi, nào đâu có Vũ Hạnh thứ hai là nhân vật do chị Irina tưởng tượng ra! Trong photocopy bức thơ của Vũ Hạnh gởi cho chị Irina còn có ghi cả địa chỉ của Vũ Hạnh ở Sài Gòn kia mà, này nhé: 647 Điện Biên Phủ. Q3. Thành phố Hồ Chí Minh.Trước sau chỉ có một Vũ Hạnh đó mà thôi! Đó là Vũ Hạnh, đảng viên Việt Cộng nằm vùng ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975. Đến khi Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam, đến ngày 3-4-1976, công an Việt Cộng mở chiến dịch hốt gọn các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nghệ sĩ tự do ở Việt Nam cho vào tù và nghe đâu danh sách các văn nghệ sĩ ấy là do Vũ Hạnh thiết lập. Trong hồi ký của Tạ Tỵ, quyển Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, thì danh sách ấy do Vũ Hạnh cùng thiết lập với Sơn Nam.
Bàn về ngày bi thảm 3-4-1976, ngày mà sau nầy chính thức trở thành Ngày Văn nghệ sĩ Việt Nam, nhà văn kiêm nhà báo Trần Dạ Từ viết: “Trong những trang đen tối nhất của lịch sử văn hoá nhân loại, kể cả thời vua Tần đốt sách chôn học trò ở phương Đông, Nê Rô đốt thành La Mã ở phương Tây, Mao Trạch Đông làm Cách mạng Văn hoá ở Hoa Lục, sự bách hại nhắm riêng vào giới cầm bút và nghệ sỹ, chưa bao giờ đạt tới mức qui mô như biến cố ngày 3-4-1976 ở Việt Nam, cả về tính cách lẫn thời gian.”
Xin trở lại thời gian Vũ Hạnh nằm vùng dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa, khi được lãnh tiền nhuận bút 120 ngàn đồng (giá trị bằng 8 cây vàng) cho một quyển sách, với tiền thù lao xứng đáng như vậy, Vũ Hạnh như là người đang được ăn chiếc bánh thật mà trong lòng cứ chết mê chết mệt đeo đuổi theo chiếc bánh vẽ do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản rêu rao từ năm 1945.
Chuyện văn nô phục vụ lâm tặc: một chỉ vàng
Việt Nam Cộng hòa đang trên đà phát triển theo cùng một nhịp với Đài Loan và Đại Hàn, thì bị bức tử vào ngày 30-4-1975. Ôi thôi rồi! Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ 20! Công lao tranh đấu ôn hòa của Cựu hoàng Bảo Đại (sau là Quốc trưởng) để tranh đoạt Độc lập từ trong tay Pháp! Đến Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Quân Dân Cán Chính miền Nam đã chẳng những can trường chống trả bộ đội Việt Cộng ở ngoài chiến trường mà còn phải lo đón đỡ những đòn đánh lén của nhóm Việt cộng nằm vùng như Vũ Hạnh ở hậu phương! Rồi còn phải hứng chịu biết bao nhiêu điều thóa mạ trên mặt trận tuyên truyền vu khống của Việt Cộng, bị mang tiếng nào là Việt gian bán nước, bồi Tây, tay sai Mỹ Ngụy, Thiệu Kỳ ác ôn…
Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ 20 đã sang trang nhưng đã đi vào lịch sử như một điểm son sáng chiếu để rồi bị thay thế bằng những trang sử đen tối nhất từ đấy cho đến đầu thiên niên kỷ thứ ba và kéo dài không biết đến bao giờ! Trên những trang sử vô cùng đen tối ấy, thử xem ta có thể đọc được đôi ba dòng về cuộc sống của giới văn nghệ sĩ hay không? Đây, những dòng chữ ảm đạm tác giả Bùi Ngọc Tấn cố gắng và can đảm viết thật rõ nét cho chúng ta được đọc. Trong quyển Viết về bạn bè, tác giả Bùi Ngọc Tấn thố lộ rằng vì chưa viết được về mình thì hãy viết về những bạn văn và những nhếch nhác trần ai của họ. Có ba người bạn văn của tác giả, Đình Kính và Chu Lai là hai nhà văn quân đội và Nguyễn Quang Thân là tác giả nhiều thiên tiểu thuyết một thời làm say mê độc giả ở quốc nội. Trong cảnh nhếch nhác trần ai ấy, ba nhà văn, vì muốn có tiền, chỉ còn cách dùng văn tài của mình để đi viết thuê, tức là làm văn nô, chứ không phải viết cho mình! Bùi Ngọc Tấn viết:
“Để có tiền, nói cách khác, để sống còn, thôi thì đành gác lại những trang sách vẫn nghiền ngẫm nung nấu, những tác phẩm sẽ được viết ra bằng tim gan mình. Hãy để lại sau. Để đến bao giờ chưa biết, nhưng trước mắt là kiếm sống. Đình Kính, Chu Lai, Nguyễn Quang Thân đã phải ép mình chấp nhận viết thuê cho viên giám đốc một lâm trường quốc doanh. Dĩ nhiên, họ không thể viết theo ý mình. Họ phải vận dụng ngôn từ, chữ nghĩa, kể cả những mánh lới mang tính lưu manh, để thỏa mãn ý muốn của người thuê viết, là biến Rừng Xưa Lá Úa trở thành Rừng Xưa Xanh Lá.”
“Rừng xưa lá úa. Nhưng những con người đến cùng rừng hôm nay đã thay lá cho rừng. Không phải đất trời, sự vận động của thời tiết, của bốn mùa đã làm nên điều ấy. Mà chính là con người. Con đường mới mở trong rừng đâu phải chỉ làm bằng máy móc. Trước hết, nó được làm bằng trí tuệ, bằng tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của những người làm việc âm thầm không cần ai biết đến... Rừng thay lá. Rừng sống lại. Rừng lại hát khúc ca hùng tráng của rừng.”
“Những cây bút viết thuê nầy biết rằng họ phải bịa, cho dù phải cúi mặt vì xấu hổ với lương tâm. Nhưng biết làm gì khác hơn khi vợ con, bố mẹ và cả chính mình còn có một thứ nợ đời phải trả. Đó là nợ áo cơm. Bằng mọi giá họ phải đáp ứng đòi hỏi của người thuê là hoàn tất cuốn sách có tên Rừng Xưa Xanh Lá trong thời hạn hai tháng được nuôi ăn, và sau khi hoàn tất được trả công mỗi người đúng một chỉ vàng như đã quy định trong hợp đồng từ lúc khởi đầu.”
Dưới ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn thì ba bạn văn của ông phải bẻ cong ngòi bút, không phải để làm bồi bút cho đảng Cộng sản, mà còn tệ hơn nữa, là làm văn nô để viết thuê cho viên giám đốc lâm trường quốc doanh vốn là phường lâm tặc. Món tiền còm nhuận bút một chỉ vàng trả công cho mỗi một người bạn văn ấy chính là tiền tên thủ trưởng lâm tặc đã phá hoại tài nguyên của đất nước mà tư túi riêng cho mình.
Xin trở lại chuyện nhà văn Vũ Hạnh. Không cần phải chờ đến thiên niên kỷ thứ ba, để ông đọc tác phẩm Viết về bạn bè của Bùi Ngọc Tấn, ông mới biết các nhà văn sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nghèo khổ như thế nào. Theo bài Mặt đối mặt với Nhân dân của ông viết vào năm 1990, chỉ sau ngày giải phóng 15 năm, ông đã mở mắt để thấy rõ sự thất bại của xã hội chủ nghĩa và vì ông là văn sĩ với tâm hồn dễ dàng rung cảm, nên hẳn ông cũng rất thương xót cho số phận hẩm hiu của ba nhà văn xấu số kia phải sống đọa đầy trong kiếp văn nô. Tôi thiết nghĩ chắc có nhiều độc giả cũng muốn biết số phận của Vũ Hạnh như thế nào dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, có giống như số phận hẩm hiu khốn khổ của ba bạn văn của Bùi Ngọc Tấn hay không!? Thì có khác gì với những văn nghệ sĩ và trí thức Hà Nội đã bỏ thủ đô theo Hồ Chí Minh lên Việt Bắc kháng chiến chống Pháp: kháng chiến thắng lợi, trở về thủ đô Hà Nội để thấy Dân tộc bị mất tự do dân chủ và nô lệ cho Liên Sô và Trung Quốc. Họ lại đứng lên tranh đấu bằng ngòi bút của mình trong phong trào Nhân văn Giai phẩm. Nhưng họ lại bị đàn áp khủng bố, tù đày, đói rách, khốn khổ đến mức: sự thật đã có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà phê để uống! Đã có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện! Và đã có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của mình để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ! Còn Hữu Loan, trong căn nhà nhỏ trong đêm tối, chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu để thức mà viết!
Bây giờ, tôi xin trở lại đề tài Có một Vũ Hạnh hay có hai Vũ Hạnh? Chắc có nhiều bạn đọc cho rằng Vũ Hạnh thứ nhất đã viết bài phê bình đảng năm 1990 là Vũ Hạnh can đảm. Còn Vũ Hạnh thứ hai là Vũ Hạnh hèn nhát, không có cái đảm lược như Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan, nên đã chối rằng không có viết bài của mình. Đó là Vũ Hạnh hèn như nhân vật trong truyện Ly Thân của Trần Mạnh Hảo mà Nguyễn Ngọc Bích đã phê bình. Nhưng không phải vậy. Người viết xin phép không muốn dùng chữ “hèn” để phê bình Vũ Hạnh và cũng xin ông Nguyễn Ngọc Bích thứ lỗi vì đã không phê bình nhất trí với ông.
Ở miền Bắc, ai cũng mang họ “Sợ”
“Tránh voi không xấu mặt nào”cổ nhân ta dạy thế. Trong một chế độ coi rẻ sinh mạng con người và không từ nan bất cứ thủ đoạn nào để tiêu diệt người đối lập, ai ai cũng phải áp dụng triết lý sống như Nguyễn Tuân: “Tao mà còn sống và viết được đến ngày hôm nay là nhờ tao BIẾT SỢ chúng mày ạ!”, cụ vừa nâng ly rượu vừa nói mà nước mắt chảy ròng ròng! Còn nhạc sĩ Văn Cao, trước khi lìa đời hai tuần lễ, mới dám nói với một phóng viên ngoại quốc: “Bây giờ tôi đã 73 tuổi, tôi không còn biết sợ gì nữa. Chẳng ai giết tôi được nữa.”
Nhà thơ Chế Lan Viên đã ăn bánh vẽ Của Hồ Chí Minh suốt đời. Nhưng đến cuối cuộc đời, bị ăn quá nhiều bánh vẽ nên phát ách, ông mới tuôn những dòng thơ phản ứng như sau:
Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn,
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui!
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Ngay đến người hùng Điện Biên Phủ là Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn phải ép mình nhẫn nhục thay. Xin nhắc lại chuyện khủng bố do cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chủ xướng: chỉ trong một đêm, họ sai công an bắt sạch sẽ mấy chục tướng tá trực thuộc bộ Tổng Tham mưu thân cận của tướng Giáp đem về tra khảo tàn nhẫn bắt nhận tội nói xấu Tổng bí thư, mặc dầu những ông sĩ quan nầy có đến ngót nghét 40 tuổi đảng. Vậy mà tướng Giáp không một lời phản đối để binh vực thuộc hạ của mình. Về vụ việc này, tác giả Bùi Tín có hỏi tướng Giáp sao không can thiệp để đòi công bằng cho những người làm dưới quyền ông bị bắt giam oan ức thiệt thòi hàng mấy chục năm (Trích quyển Hoa xuyên tuyết trang 143). Ông trả lời đại ý: có chứ, nhưng không thể làm gì nổi trong cái cơ chế kỳ lạ này, khi ngành tổ chức, ngành an ninh là chúa tể, lộng hành. Nếu không cẩn thận thì tất cả còn bị trù nặng nề và kéo dài hơn nữa, và bản thân ông cũng bị tai họa như chơi!
Một đoạn văn của Lạc Nam trong bài Diễn tiến Hòa bình (Bán tuần báo Việt Luận, ngày 5-4-2005): “Trong Bộ Chính trị, người duy nhất biết đọc biết viết là Võ Nguyên Giáp bị kết tội “chống đảng”. Ông là người có uy tín trong quân đội và nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ. Chính Lê Đức Thọ và Lê Duẩn hỏi cung trực tiếp và buộc Võ Nguyên Giáp nhận tội “chống đảng”… Rồi sau đó, mỗi lần có tiếng chuông bấm ngoài cổng, thì cả gia đình Võ Nguyên Giáp đứng tim vì tưởng người ta lại đến bắt chở đi…”
Đốn ngã hết tay chân bộ hạ của tướng Giáp chưa đủ, phe cánh Lê Duẩn còn hạ nhục ông, bắt ông phải phụ trách việc hạn chế sinh đẻ thuộc công tác kế hoạch hoá gia đình. Vụ việc nầy làm cho ngoài dân gian có câu vè truyền tụng:
“Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em.”
Và một câu vè khác:
“Ngày xưa đả viện công đồn
Ngày nay Đại tướng bịt l... chị em”
Vì thế có người viết bài rằng “Đại tướng đã thắng Pháp, nhưng thua Đảng”.
Có một Vũ Hạnh hay có hai Vũ Hạnh?
Vì tình trạng đất nước mình như thế cho nên tôi không dùng chữ “hèn” với nhà văn Vũ Hạnh, nhất là thời điểm sau khi chế độ Cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Sô sụp đổ, công an Cộng sản càng ra sức đàn áp khủng bố tàn bạo độc ác hơn bao giờ hết.
Nhưng thưa quý bạn đọc, để trả lời câu hỏi Có mấy Vũ Hạnh, xin trả lời ngay là có hai Vũ Hạnh:
1- Vũ Hạnh thứ nhất là Vũ Hạnh nằm vùng được thưởng thức chiếc bánh thật để phá hoại Việt Nam Cộng hòa (“nằm vùng” mà lại được ăn bánh thật!)
2- Vũ Hạnh thứ hai là Vũ Hạnh quan chức đỏ được ăn cái bánh vẽ to tướng do Bác Hồ và Đảng Cộng sản ưu ái đút cho trong chế độ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ lại chuyện Con chó và miếng thịt trong sách Quốc văn Giáo khoa thư mà ngày xưa, trước năm 1945, học sinh nào cũng có đọc. Nội dung chuyện nầy bàn về việc thả mồi bắt bóng y như câu chuyện bánh thật và bánh vẽ của Vũ Hạnh, cho nên chúng tôi cũng xin sao chép lại để đọc chơi cho vui. Câu chuyện trong sách Giáo khoa thư ngày xưa nguyên văn như sau:
“Một hôm, một con chó vào hàng cơm ngoạm trộm miếng thịt. Người nhà hàng trông thấy, vác gậy đuổi theo. Con chó đâm đầu chạy. Khi chạy đã xa, đến một cái cầu, con chó dừng lại để ăn. Nhìn xuống sông, thấy có một miếng thịt to hơn miếng thịt đang ngậm trong miệng. Nó liền nhả ngay miếng thịt ấy ra, nhảy xuống sông định lấy miếng thịt ở dưới nước. Nhưng nào có lấy được! Chẳng qua chỉ là bóng miếng thịt nước chiếu lại mà thôi. Còn miếng thịt, dòng nước cuồn cuộn kéo đi, con chó hết sức đuổi theo cũng không sao lấy lại được nữa.
Ôi! con chó lấy trộm thịt là có tội, con chó nhả bỏ miếng thịt là khờ dại. Thả mồi bắt bóng, bóng bắt chẳng được, mồi kia không còn, chẳng là đáng tiếc lắm sao! Người ta ở đời chẳng nên đứng núi này, trông núi nọ, đã được voi, lại còn đòi tiên. Cái gì đã nắm chắc trong tay, ta chớ nên buông ra mà chực những cái hão huyền đâu đâu.”
Người dân ở nông thôn Việt Nam sống gần thiên nhiên cũng có nhận xét tương tự:
Con cá trong lờ dật dờ đôi mắt,
Con cá ở ngoài lúc lắc chun vô.
Bạn đọc thân mến ơi! Đó chỉ là chuyện chó và cá, mà sao lại giống y như chuyện Vũ Hạnh và chuyện Dân tộc Việt Nam mình vô cùng!
Nhận xét của Bùi Tín về Miền Nam
Sau ngày 30-4-1975, Bùi Tín sống ở Sài Gòn trong 4 năm liền. Cùng với nhiều người từ miền Bắc vào Nam sinh sống, Bùi Tín đã “khám phá” miền Nam, đúng như nó vốn có, chứ không như trước đó được Đảng tuyên truyền. Trong quyển Mây mù thế kỷ, xuất bản ở Paris mùa Thu 1998, tác giả Bùi Tín viết (trang 28): “Chúng tôi dần dần thấy rằng, chế độ chính trị ở miền Nam có những cái dở, cái kém, nhưng dù sao nó cũng có điểm trội hơn miền Bắc, như có tự do kinh doanh, đặc biệt là có tự do báo chí, ngôn luận, có báo tư nhân, có tự do xuống đường, biểu tình, tuần hành, tán phát truyền đơn, có tự do tín ngưỡng… là những điều ở miền Bắc chưa từng có.”
Đó là những quyền căn bản người dân miền Nam đã được hưởng, và nhạc sĩ Phạm Duy còn được thêm “quyền tự do sáng tác” vì chính ở miền đất đẹp phương Nam đó, người nhạc sĩ họ Phạm tài ba của thế kỷ, cũng như tất cả các văn nghệ sĩ khác nhất là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tất cả đã “sống những ngày phong phú nhất đời mình” . Nhưng sau ngày 30-4-1975, Đảng đã lấy lại hết, không còn tự do nào cả, và phát cho cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh!
Tâm sự ngậm ngùi của cụ Vũ Đình Huỳnh
Trong quyển hồi ký Hỏa Lò, tác giả Nguyễn Chí Thiện có nói về một người làng Vân Đình, cùng quê với cụ nghè Dương Khuê, vào đảng năm 25 tuổi, là bộ đội đã tham dự chiến dịch Biên giới và Điện biên. Anh đã “giác ngộ” tương đối sớm, nhưng cũng quá muộn để làm lại cuộc đời. Sau Cải cách Ruộng đất, sau vụ Nhân văn, anh biết mình đã lầm. Khi đất nước thống nhất, anh có dịp đi công tác vào Nam ngay và có nhận xét (trang 218 sđd): “Qua vùng đồng bằng sông Cửu Long, tôi thấy tận mắt nông dân dùng cả gạo để nuôi lợn. Quá no đủ. Đầy tình người. Đặt chân tới thành phố Sài Gòn, tôi giật mình. Phồn thịnh quá! Hạnh phúc quá! Trẻ con thời ngoan ngoãn, lễ phép. Hoá ra tuyên truyền toàn bố láo. Cả một cuộc sống như vậy mà không biết giữ lấy. Thực đáng tiếc, đáng trách”.
Trở ra Hà Nội, anh có dịp gặp lại cụ Vũ Đình Huỳnh. Cụ là người quen cũ vì trong thời kháng chiến, anh đã có gặp cụ vài lần. Đây là lời anh thuật trong lần tái ngộ nầy (tr.219 sđd): “Một cụ già đạo mạo, trang trọng. Nét cương nghị, trung thực, hiện rõ trên vẻ mặt ưu tư, buồn buồn. Cụ ngậm ngùi nói với tôi: “Anh bạn ạ, Sài Gòn là thành phố bị chiếm đóng. Không phải là thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà Nội. Tôi cả đời đi làm cách mạng, hy sinh tất cả, chỉ mang trong lòng một nguyện ước: đất nước được độc lập, Dân tộc được tự do, no ấm. Tôi đã không làm được điều đó. Thực đắc tội với đồng bào.”
Sài Gòn năm 1979 dưới mắt Vũ Thư Hiên
Sau đây là vài câu chuyện phụ họa để tô thêm vài nét thê thảm cho Cái bánh vẽ Hồ Chí Minh. Trước hết là chuyện Sài Gòn năm 1979 dưới mắt Vũ Thư Hiên. Bị giam cầm 9 năm không xét xử, được thả vào năm 1976, và đến tháng 12 năm 1979 thì tác giả Đêm giữa ban ngày Vũ Thư Hiên vào được Sài Gòn. Vũ Thư Hiên thuật về chuyến đi và nhận xét về thành phố Sài Gòn như sau (trang 288 sđd):
“Đó là chuyến đi nhớ đời, rất vất vả từ việc xin cấp Thông hành thay cho Chứng minh nhân dân mà tôi chưa có, tới việc mua vé máy bay. Vào tới tận chợ Bến Thành rồi tôi mới tin là mình không bị cản lại. Cuộc sống ở Sài Gòn khác xa cuộc sống ở miền Bắc, mặc dầu Sài Gòn 1979 đã không còn giống thời nó là “Hòn ngọc minh châu trong Á Đông”. Chế độ tem phiếu đã được áp dụng.”
“Bữa cơm của dân chúng đã phải độn bo bo, chẳng khác gì ở Hà Nội. Nhưng Sài Gòn vẫn sầm uất, vẫn nhộn nhịp, vẫn cố gắng để có cuộc sống riêng, chứ không sống theo chỉ thị. Thành thử nếu gọi cảnh Sài Gòn 1979 là tiêu điều thì không biết gọi cảnh Hà Nội bằng gì cho đúng.”
Theo như câu vè mới phát sinh vào lúc đó “Người Nam nhận họ, Người Bắc nhận hàng”, tình bà con họ hàng thân thương kẻ Nam người Bắc đùm bọc lẫn nhau được nhà văn Vũ Thư Hiên phác họa bằng nét chấm phá: “Người Hà Nội tiếp tục vào Sài Gòn kìn kìn khuân ra tivi, tủ lạnh và trăm thứ bà dằn khác.”Nhưng chữ bà dằn anh Vũ Thư Hiên dùng, thì ở trong Nam chúng tôi quen miệng nói hằm bà lằng, và có người còn nói hằm bà lằng xắng cấu cho có vẻ giống đồng bào người Việt gốc Hoa.
Sài Gòn năm 1977 dưới mắt Lương Thành Nĩ
Lương Thành Nĩ là người tỉnh Tây Ninh theo đạo Cao Đài, tác giả quyển Thực trạng của cuộc Chiến tranh Việt Nam xuất bản ở California, tháng 1-1995. Quyển sách dài 400 trang, được bố cục thành 82 “chương chuyện”, mỗi chương là một câu chuyện ngắn, gọn, đầy đủ ấn chứng, rất dễ đọc. Lương Thành Nĩ viết với tâm niệm cao cả rằng (trích Lời tựa, trang 3 sđd) “Mọi người chúng ta hãy làm một điều gì dù là nho nhỏ, hầu góp phần đừng để cho những kẻ gian trá, vốn đã lừa đảo được gần như mọi người trên khắp thế giới trong chiến tranh, không còn xe tròn, bóp méo được nữa đối với sự thật và lịch sử…”
Ở chương III nhan đề Be bờ Cộng sản, thời điểm sau 1954, Lương Thành Nĩ nhắc lại câu nói của Hồ Chí Minh (trang 88 sđd):“Ngày nào miền Nam chưa được giải phóng, đồng bào miền Nam còn đói khổ, tôi ăn không ngon ngủ không yên”.
Ngon! Hồ Chí Minh ngon! Đúng là lời nói của kẻ tiểu nhân vô lại tự mình tôn vinh là “Cha già Dân tộc” rồi được cả “bầy đàn” văn nô tung hô! Hồ Chí Minh quá gian xảo đã láo khoác vo tròn bóp méo lịch sử! Vào lúc đó miền Nam nào có đói khổ đâu, chính miền Bắc đang đói khổ mà “Bác” lại không lo. “Bác” chỉ cho dân “ăn bánh vẽ” và lo đem quân vào đánh chiếm miền Nam cho kỳ được! Hãy xem màn kế tiếp của vở bi hài kịch Giải phóng Miền Nam.
Rồi miền Nam được “giải phóng” ngày 30-4-1975. Lương Thành Nĩ viết tiếp: “Đến 1977 khi có lập loè cởi mở, phương tiện đi đứng đỡ eo hẹp, người từ Bắc ùa vào Nam LÀM KẺ HÀNH KHẤT ăn xin với mức độ không tưởng tượng nổi. Hầu như vào bất cứ một quán ăn hay giải khát nào dù nhỏ hay lớn ở tại thành phố hay thị xã, thị trấn nào cũng có người đến than thở cầu mong giúp đỡ. Nhưng thực khách không phải xót dạ nếu những kẻ ăn xin kia là người có tuổi, già cả, có lẽ bởi quá xa xôi nên các cụ không còn sức khỏe để đi từ Bắc vào Nam làm hành khất. Mà thực khách chỉ phải xót dạ vì những chị phụ nữ còn trẻ trung, khoẻ mạnh tay bồng con và những anh thanh niên trai tráng, có những người trông thật là khôi ngô, tuấn tú nhưng quần áo thì dơ bẩn nhăn nheo, cử chỉ thẹn thùng, cặp mắt trắng bệt mở lờ đờ, nhìn thấy họ chẳng còn một chút tự tin nào!”
Về cái xã hội mà Hồ Chí Minh và Lê Duẩn xây dựng ở miền Bắc từ 1954 đến 1975, tác giả Lương Thành Nĩ, người dân Tây Ninh đã can đảm đứng lên nói thay Dân tộc, và đặt câu hỏi về tương lai của Đất nước: “Nhìn hình ảnh thanh niên của một xã hội chẳng còn niềm tin thì chắc ai cũng biết mức độ sung mãn của cái xã hội ấy như thế nào rồi phải không, thưa quí vị?!”
“Tự do, cơm áo, hòa bình” không còn nữa
“Tự do, cơm áo, hòa bình” là một ca khúcđược sáng tác trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc Nam bộ Kháng chiến. Nhạc sáng tác do anh Nguyễn Văn Thông, một nhạc sĩ vĩ cầm, biệt hiệu Lữ Sinh. Vào lúc đó, anh phụ trách dạy nhạc cho trại huấn luyện Cán bộ Thanh niên và Thiếu nhi tại địa điểm Cồn Lớn sát bờ biển Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Một buổi trưa trong trại, nhạc sĩ Lữ Sinh đưa bản nhạc anh vừa viết xong cho Xuân Tước và bảo: “Tao viết nhạc, mầy làm lời đi!”.Xuân Tước viết trong quyển Hồi k ý 60 năm cầm bút (Nhà xuất bản Văn Nghệ, trang 31):
“Thế là tôi ngồi xuống. Anh nâng cây vĩ cầm lên, kéo cho tôi nghe một lần. Thấy hay, tôi bảo anh đàn lại, rồi chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã hoàn tất ca khúc “Tự do, cơm áo, hòa bình”. Xuân Tước viết tiếp: “Lữ Sinh khoái quá. Ngay hôm sau, anh đem bài hát ra tập cho trại sinh.”
Lời ca của bản nhạc như sau:
Làm sao khắp chúng dân đều tự do,
Làm sao khắp muôn dân đầy cơm áo?
Làm sao khắp thiên hạ hưởng hòa bình?
…………………………………………….
Vùng lên quyết tranh phần sống,
Tự do, hạnh phúc kia rồi.
Hòa bình, no ấm chào đón ta!”
Thế vì sao “Tự do, cơm áo, hòa bình” không còn nữa? Đến 45 năm sau, câu chuyện mới được tiếp nối do bức thư của Xuân Vũ gởi cho Xuân Tước. Nhắc lại chuyện xưa lúc ở Trại huấn luyện Cồn Lớn, Xuân Tước là người điều khiển trại còn Xuân Vũ là một trại sinh thiếu nhi 16 tuổi. Năm 1992, lúc hai người đều sống đời tỵ nạn trên đất Mỹ, Xuân Vũ chép nguyên cả bài “Tự do, cơm áo, hòa bình” gởi cho thầy mình là Xuân Tước với lời chua thêm như sau:
“Đây là bài hát phổ biến nhất Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và đã được Hà Nội dùng liên tục hơn 10 năm, đặc biệt làm nhạc hiệu cho buổi phát thanh vào Nam, nhưng không hề nhắc đến tên tác giả. Tồi bại hơn nữa, khi chúng cướp được miền Nam thì không dám phát thanh vì sợ cái mà chúng đòi Sài Gòn phải có thì bây giờ chính người Sài Gòn lại đòi chúng phải có cho họ, tức là Tự do, cơm áo, hòa bình.”
Câu chuyện “Sao chú không chờ?”
Trong một buổi trà dư tửu hậu ở Sydney, một anh bạn giáo chức đồng nghiệp thuật cho chúng tôi chuyện Sao chú không chờ? mà đã 30 năm qua rồi chúng tôi vẫn còn nhớ. Anh là người miền Bắc di cư, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, và được dạy tại một trường trung học ở Sài Gòn. Anh đang an cư lạc nghiệp thì xảy ra cơn Quốc Nạn 30-4-1975. Cả miền Nam hốt hoảng tìm cách vượt biên. Anh bạn người Bắc di cư của tôi may mắn có một mối tổ chức vượt biên đáng tin cậy. Đồng thời, anh gặp lại một người anh họ là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội chuyển vào. Biết anh sẽ cùng gia đình vượt biên, người anh họ mới khuyên: “Sao chú không chờ một thời gian để xem chúng tôi làm việc ra sao đã. Nếu sau này mà thấy chúng tôi không làm được việc thì chú hãy đi.” Lẽ tất nhiên người bạn di cư của tôi vẫn tâm niệm câu nói trứ danh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Việt Cộng nói mà hãy nhìn kỹ những gì Việt Cộng làm”, cho nên anh không nghe lời khuyên của người anh họ.
Anh bạn nhà giáo vượt biên thành công. Sau một thời gian ổn định nơi đất khách quê người, thì bốn đứa con của anh đều tốt nghiệp đại học: ba đứa là bác sĩ y khoa và một là nha sĩ. Nhắc lại lời khuyên của người anh họ, anh bạn của tôi cười hóm hỉnh:“Anh ấy bảo mình hãy chờ xem, nếu thấy các ổng không làm được việc, thì đến chừng đó mình hãy đi! Anh nghĩ coi, có lạ không! Nếu các ổng không làm được việc, thì các ổng phải đi chứ! Tại sao tôi phải đi! Té ra các ổng nghĩ rằng các ổng sẽ cầm quyền mãi mãi. Thôi thì mình đi cho được việc!”
Xin đừng chôn tôi gần Việt Cộng!
Người bạn giáo chức của chúng tôi dẫn cả gia đình đi vượt biên, theo cách nói thời thượng, họ không chấp nhận chế độ nên đã bỏ phiếu bằng chân. Và có một dạo, ai ai ở Việt Nam cũng nói “Nếu cột đèn đi được, thì chúng cũng đi rồi”. Sau ngày Quốc nạn 30-04-1975, Dân tộc đã nếm mùi bánh vẽ của Hồ Chí Minh, nên mới tiếc nhớ những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ, quãng thời gian kể từ lúc Cựu hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh, qua Đệ nhất Cộng hòa với tổng thống Ngô Đình Diệm, đến Đệ nhị Cộng hòa với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thời vàng son đã qua như giấc mộng đẹp! Đến thời đen tối sống dưới ách Cộng sản khiến cho ai ai cũng muốn bỏ phiếu bằng chân. Riêng về điệp viên Phạm Xuân Ẩn, người đã đóng góp cho ngành tình báo Việt Cộng, qua đời năm 2002, ông không bỏ phiếu bằng chân, ông để lại lời trối: “Xin đừng chôn tôi gần Việt Cộng!”
Trong tác phẩm Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm của Vĩnh Phúc, xuất bản năm 1998, tác giả có thuật chuyện điệp viên Việt cộng Phạm Xuân Ẩn đã ra tay cứu giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến, cựu giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị tại phủ Tổng thống. Ông Ẩn biết được địa điểm rước tỵ nạn bằng trực thăng cuối cùng vào đêm 29-4-1975, mới hối hả lấy xe Renault 4 ngựa của mình chở bác sĩ Tuyến đến nơi vừa kịp lúc.
Trong lần tái bản năm 2006, tác giả Vĩnh Phúc viết thêm (trang 516 sđd): “Sau này, ông Ẩn sống trong tâm trạng u uất và chán nản. Hẳn ông rất hối hận đã chọn lầm đường, đã đem hết khả năng thời trẻ phục vụ cho một l ý tưởng mà ông đặt lầm chỗ.”
Chuyện 3D của Giáo sư Phạm Thiều
Giáo sư Phạm Thiều là một vị giáo sư khả kính, người gốc Hà Tĩnh, dạy chữ nho và toán tại trường Trung học Trương Vĩnh Ký. Ông tham gia kháng chiến với chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn, rút ra khu từ tháng 9-1945, tập kết ra Bắc, rồi trở về Nam sau 30-4-1975. Đến năm 1986, ông treo cổ tự tử. Ông để lại cho đời Lời phê nình 3D (ba chữ D) về chế độ do Hồ Chí Minh xây dựng như sau: “DỐT mà lãnh đạo nên làm dại. DẠI mà muốn thành tích nên báo cáo DỐI. DẠI, DỐT, DỐI đó là ba điều làm cho các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.”
Trong tác phẩm Những ngày qua, bác sĩ Trần Ngươn Phiêu ghi lại Lời phê bình 3D trứ danh nói trên và cho biết cảm tưởng về cái chết đau thương của Giáo sư Phạm Thiều như sau (trang 182 sđd): “Không hiểu có phải vì ông đã chán ngán cái cảnh thoái hóa, tham nhũng của cán bộ Cộng sản sau 1975 hay vì ông nhận thức được cái sai trái của đường lối chủ nghĩa Cộng sản của Stalin khiến làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ở Trung Âu, nên ông đã ân hận và treo cổ tự tử.”
Cái chết của Giáo sư Phạm Thiều đầy bí ẩn. Nhưng nếu cảm tưởng của Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu về sự tự tử của Giáo sư Phạm Thiều là đúng thì chúng ta có thể kết luận rằng: Giáo sư Phạm Thiều ân hận vì thấy Dân tộc bị ăn cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh, Giáo sư không bỏ phiếu bằng chân, Giáo sư đành bỏ phiếu bằng mạng sống của mình!
Lời phát biểu của Nguyễn Hữu Thọ
Giáo sư Phạm Thiều bỏ phiếu “không ăn cái bánh vẽ của HCM” bằng chính mạng sống của mình năm 1986, thì 2 năm sau đó, trong kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc họp ở Sài Gòn ngày 25-9-1988, nổi lên nhiều tiếng nói phản đối Đảng như “Chính sách kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước không phù hợp với thực tiễn tình hình đất nước, thậm chí có khi đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích của quần chúng”, “Đảng thay dân làm chủ” và “Không lấy dân làm trọng mà lấy Đảng làm trọng” v.v…
Cũng tại đại hội trên, Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đã vô cùng thất vọng trước tình trạnh dân chủ hình thức, dân chủ bánh vẽ của chế độ mà ông đã nhiều năm góp công xây dựng. Ông phát biểu: “Nhân dân ai cũng thích cái bánh thật chứ chẳng ai thích cái bánh vẽ… Khuyết điểm lớn của chúng ta là chưa có dân chủ thật sự… Người dân chưa thật sự chọn lựa được những người lãnh đạo theo sự tín nhiệm của họ”.
Sự phản tỉnh của Jean-Paul Sartre
Jean-Paul Sartre, triết gia hàng đầu của Pháp, là người đã từng ủng hộ phong trào Cộng sản thế giới rất nhiệt thành. Trong lúc phong trào Cộng sản lên đến cực thịnh tưởng chừng như sắp chinh phục cả thế giới đến nơi, ông cho rằng những người chống Cộng là chướng ngại vật ngăn cản bước tiến hóa của nhân loại nên mới gọi họ là “Loài chó má” (tiếng Pháp “chien”). Nhưng rồi nhân loại bàng hoàng khi khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ tan tành như lâu đài xây trên cát, để lại những trang sử vô cùng đen tối trong lịch sử loài người. Đến lúc đó, nhà triết gia Cộng sản Jean-Paul Sartre xoay đúng 180 độ, lần nầy ông lại dùng “Loài chó má” để gọi những kẻ thân Cộng (tiếng Pháp “procommunistes”)!
Bây giờ Jean Paul Sartre gọi những người thân Cộng là “Loài chó má”, chỉ “thân” thôi mà đã là “chó má” rồi, chúng ta không biết ông phải dùng từ gì để gọi những người Cộng sản chính hiệu, nhất là những tên Việt Cộng. Bây giờ, chúng ta có cần phải viết thêm hay không? Xin hãy để cho Dân tộc trả lời! Riêng người viết chỉ xin gọi họ là những “kẻ sáng đảng mà mù tình dân tộc, tức là những kẻ hết lòng trung với đảng mà vô cùng bất hiếu với dân”.
Con đường “Bác” đi: từ Kominternchik… đến Autocolonia-liste
Xin trở lại đề tài Vũ Hạnh và cái bánh vẽ. Điều bất hạnh cho Dân tộc Việt Nam là cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh lại quá đẹp, đẹp hơn cái bánh thật ngàn triệu lần, và không phải chỉ có một mình Vũ Hạnh muốn ăn bánh vẽ của Bác mà thôi mà có cả triệu triệu người Việt Nam cũng muốn ăn theo. Ôi! Cái bánh vẽ của Bác!Nhưng điều đại bất hạnh là trong khi Dân tộc đang thưởng thức chiếc bánh thật thì Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản gây ra cuộc chiến tranh đánh Dân tộc dài 30 năm, gây năm, sáu triệu người chết và cả chục triệu người bị thương tật ở hai bên chiến tuyến chỉ để cướp lấy cái bánh thật rồi phát cho Dân tộc cái bánh vẽ của Bác. Cái bánh thật chỉ để dành cho Đảng. Ôi! Cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh, Thiên đường xã hội chủ nghĩa của Thế giới Đại đồng!
Đến bây giờ thì cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh đã nát ruỗng cả rồi và đã trở thành huyền thoại đau thương! Không còn ai muốn ăn cái bánh ấy nữa. Dân tộc cũng không còn bỏ phiếu bằng chân nữa. Nhưng vì Đảng đã dồn Dân tộc vào chân tường cho nên Dân tộc phải đương đầu với Đảng thôi, không còn phương cách nào khác. Trong Mùa Bịt miệng 2007, việc Dân tộc đương đầu với Đảng cũng giống như chuyện lấy trứng chọi đá, chuyện châu chấu đá xe, chuyện đội đá vá trời. Nhưng Dân tộc bị bịt miệng thì mắt lại sáng suốt vô cùng để thấy rất rõ rằng Con đường “Bác” đi chỉ là Con đường bi đát, bởi lẽ “Bác” đã đi theo Cuộc Cách mạng đã bị phản bội. Trên Con đường bi đát đó, Hồ Chí Minh đã khởi hành ở điểm Quốc tế ủy Komin-ternchik để cuối cùng dìu dắt băng đảng thành những tên Thực dân lô canh hay Thực dân bản địa Autocolonialistes, như Jean Lacouture đã gọi.
Xin mở dấu ngoặc: Jean Lacouture là sử gia Pháp đã một thời hết lòng ủng hộ và ca ngợi Hồ Chí Minh, nhưng sau cùng ông cũng đành hạ bút viết rằng Kẻ chiến thắng đã xây dựng được chế độ Autocolo-nialisme, một từ mới do ông chế tác. Theo văn phong của ông, ta có thể hiểu đó là Chế độ Thực dân không phải do người Pháp cai trị như ngày xưa mà là Chế độ Thực dân Tự quản hay “Lô canh” (local). Có một vài nhà bình luận đã dùng chữ “Nội xâm” để diễn tả ý tương tự như vậy. Theo một cách diễn tả rõ ràng hơn, ta có thể nói trong Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chiến thắng Dân tộc và đã xâm chiếm Đất nước làm Thuộc địa của riêng mình, biến Dân tộc thành Nô lệ cho Đảng, và Đảng đã trở thành Thực dân lô canh y hệt như Thực dân Pháp ngày xưa!
Sử gia Pháp Jean Lacouture không còn ca ngợi Hồ Chí Minh như xưa nữa, cho nên khi ông chế tác danh từ mới Autocolonialisme, tức là Chế độ Thực dân lô canh, hẳn ông ngụ ý Chế độ Thực dân lô canh mà Hồ Chí Minh thiết lập cũng không khác gì Chế độ Thực dân Pháp thời Pháp thuộc ngày xưa. Nhưng Dân tộc Việt Nam thì biết không phải vậy. Chế độ Thực dân lô canh, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh, tức Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa của Lê Duẩn, khi so sánh với Chế độ Pháp Thuộc ngày xưa thì ĐỘC ÁC, THAM TÀN, BẦN TIỆN, GIAN XẢO, MA GIÁO, QUỶ QUYỆT, KHÁT MÁU hơn gấp nghìn gấp triệu lần.
Đảng phải trả tự do nhân quyền cho người sống, trả linh quyền cho người chết, và trả đất nước cho Dân tộc
Bởi lẽ đó, việc Dân tộc đương đầu với Đảng trong Mùa Bịt miệng 2007 tưởng rằng khó mà lại hóa thành dễ vô cùng. Dễ là vì trong hàng ngũ của đảng Cộng sản bây giờ, không còn những vị yêu nước thương dân như Cựu tướng Trần Độ của thuở nào, mà chỉ còn toàn là những Quan chức đỏ Cộng sản rấtsáng đảng mà mù tình Dân tộc. Họ cũng tham ô, tàn bạo, khát máu như những thái thú Tàu Tô Định, Thoát Hoan, Trương Phụ, Tôn Sĩ Nghị, hay như những tên Pháp xâm lược HenriRivière,Rigault de Genouilly. Dân tộc chỉ cần trở về với truyền thống chống ngoại xâm thời Bắc thuộc dài một ngàn năm, hoặc lịch sử một trăm năm chống Giặc Pháp xâm lược là được việc.
Truyền thống chống giặc ngoại xâm,sở trường của Dân tộc
Nhưng thực sự không dễ dàng, công cuộc Dân tộc đương đầu với Đảng Cộng sản để giành lấy “Nhân quyền cho người sống và linh quyền cho người chết”như lời của Hòa thượng Thích Huyền Quang. Công cuộc Dân tộc đứng lên để giành Độc lập Tự do Hạnh phúc và đòi lại Đất nước cho mình thực sự không dễ dàng bởi lẽ Đảng đã quá ma giáo, quỷ quyệt và khát máu sau hơn nửa thế kỷ kinh nghiệm độc tài đảng trị. Bây giờ Đảng đã có trong tay vô số công an, quá dư thừa để cho công an mặc thường phục giả làm dân phụ lực với công an mặc sắc phục. Đảng lại quá dư tiền để mướn bọn du đãng đầu trộm đuôi cướp tức là xã hội đen giả làm đầu gấu uy hiếp bằng võ lực những vị tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ, nếu cần thì giết người diệt khẩu, vì thế nên có thêm từ mới là xã hội đỏ. Đảng lại có ngón nghề bắt nguội, như vụ Thái Bình khởi nghĩa, Đảng chờ đợi cho sự việc tranh đấu lắng dịu và ra lịnh cho công an vào nhà ban đêm bắt những người lãnh đạo đem đi thủ tiêu. Đảng lại “theo thói phụ nữ đánh ghen” dùng át-xít tạt vào nhà như vụ khủng bố người con gái ông Hoàng Minh Chính, Đảng xử dụng những cách giết người bịt miệng bằng những tai nạn giao thông theo chiêu thức “ném đá giấu tay”, hoặc bằng cách dùng độc dược trộn vào thức ăn cho các tù nhân. Đảng lại có sáng kiến chưa từng thấy trong bất cứ quốc gia dân chủ nào là muốn xoá án tích nên không dùng chứng từ án lịnh mà chỉ dùng khẩu lịnh cho công an trong việc đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ dân quyền.
Khi Cựu tướng Trần Độ bị khai trừ ra khỏi đảng và viết Nhật ký Rồng rắn, khi cựu Đại tá Bùi Tín và cựu Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội Nguyễn Minh Cần trở thành những chiến sĩ kiệt xuất tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ cho Dân tộc, khi nhà văn Vũ Thư Hiên để hết tâm trí hoàn thành quyển Đêm giữa ban ngày để trao cho các thế hệ tương lai, khi nữ sĩ Dương Thu Hương khóc cho thành phố Sài Gòn vừa bị mất tên và viết bài “là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền” thì cái đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh thành lập không còn là cái gì cả. Xin lập lại: cái đảng CS do Hồ Chí Minh thành lập không còn là cái gì cả!
Chủng loại Homo Sovieticus trên đất Việt
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập và xây dựng, trong hơn gần một thế kỷ nay, đã thụt lùi xuống tới mức tàn ác gian xảo đê tiện hèn hạ tận cùng của loài người, loài Homo Sovieticus, một giống người mới xuất hiện từ tháng 10 năm 1917 ở Nga. Xin ghi chú: từ “Homo Sovieticus” rất phổ biến vào thập niên 1980. Nguyên thủy, từ đó dùng để chỉ một chủng loại mới của loài người đột sinh dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của Stalin. Chủng loại đó, tức là người dân Nga nghèo khổ, phải mánh mung, lươn lẹo, gian trá mới sống còn trong môi trường chính trị của Stalin. Tác giả Aleksandr Zinoviev đã viết quyển Homo Sovieticus được dịch ra tiếng Anh năm 1985. Ở đây, người viết xin được dùng từ Homo Sovieticus trái ngược với ý nguyên thủy để chỉ những cán bộ, những công an, những cốt cán CCRĐ năm nào, tất cả là những cây người Hồ Chí Minh đã trồng trên đất Việt, sau khi đã đào tận gốc trốc tận rễ Trí Phú Địa Hào, thì biến thành những Quan chức đỏ, cai trị Đất nước bằng Luật rừng xanh.
Chủng Loại Homo Sovieticus phát sinh từ đất Nga rồi lại bị diệt chủng ngay trên đất nước Nga. Nhưng than ôi! Những cây người Homo Sovieticus ác độc đó do Hồ Chí Minh (hay Hồ Xít Mao) mang về vẫn còn tồn tại trên đất Việt thân yêu của chúng ta! Đó là những kẻ sáng đảng mà mù tình Dân tộc! Đó là những kẻ hết lòng trung với đảng mà VÔ CÙNG BẤT HIẾU VỚI DÂN!
Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Bịt miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17
Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử