lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

Weblinks:

 

Tư Tưởng Của Phật Giáo

Thiền Trúc Lâm Tư Tưởng Triết Lý

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9

ĐINH QUANG MỸ

Với quan niệm như thế, chúng ta thấy một tác phẩm của Thiền thường được viết theo một thứ bút pháp mệnh danh là "Trực chỉ" mà kết cấu của bút pháp đó đại lược như sau:

a. Trước hết, nêu lên một sự kiện thông thường, gọi là cử.

b. Kế đó, mới phát biểu quan điểm về sự kiện được đề cử, gọi là bình hay  tụng.

Sự kiện được đề cử là những cái thông thường, nhưng đã bị lột trần. Thành ra, ngôn ngữ được gọi để đề cử cũng bị lột trần luôn, và rồi ngôn ngữ để bình tụng cũng bị lột trần như vậy. Cho nên, từ đầu chí cuối, người ta chỉ thấy những lời lẽ ngây ngô, nhưng quả thực vô cùng sống động. Và vì quá sống động, nên đầy những tính chất phản lý, ngược ngạo, không qui tắc.

Lối bút pháp và kết cấu trong một tác phẩm Thiền vừa nói được thấy rất rõ trong ĐCVGT.
Tiên khởi, mỗi «thanh» đều có bắt đầu bằng một bài dẫn. Đó là "Lời giáo đầu để đề cử sự kiện". Sau lời giáo đầu, sự kiện được trình bày khá sôi nổi. Đọc nơi «Không Thanh» chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy đây như bản kịch. Trong bản kịch đó, thầy trò luận đạo mà kẻ ngồi ngang người ngồi dọc, rồi những biến hóa thần thoại như chợt có chợt không. Hiển nhiên, trực chỉ của Thiền ở đây được tô đậm bằng những nét diễm ảo của Trang Tử.

Sau đó, là những lời bình giải về sự kiện của các Thiền sư. Họ bàn cũng hào hứng không kém, nhưng không quá cực đoan, nghĩa là không dùng những lời hoàn toàn ngược ngạo như ở phần đề cử sự kiện.

2. PHONG THÁI NAM HOA KINH.

ĐCVGT cũng có chỗ coi thường Lão Tử. Nhưng sự coi thường ấy cũng có thể là quan điểm riêng của người viết lời giải ở cuối sách, ông Nguyễn Đàm. Còn trong chính tác phẩm, nơi phần đề cử, người ta không thể từ chối cái phong thái Nam hoa kinh của nó. Phong thái này tạo ra một lối hành văn nửa hư nửa thực, từ nhân sinh quan của Trang Tử.

Giữa Trang và Thiền, có những cử chỉ tương tợ. Dù ở Thiền, sự vật là sự hiển nhiên như đang sống đến độ trơ trơ như gỗ đá. Nhưng Thiền sư cũng là người yêu cái đạo tự nhiên của trời đất, trong ông người ta cũng đã từng đề quyết rằng có dòng máu của Lão Trang. Vậy, phải nói, tất cả nhân sinh quan của Thiền một phần nào đó đã có những rung động trong phong độ của Trang Tử.

Dưới đây, chúng ta thử đọc hai đoạn văn trong ĐCVGT để chứng thực cho phong thái Nam hoa kinh của nó.

Đoạn thứ nhất, trích từ «Không thanh», đã dẫn ở trên. Đây dẫn thêm bài kệ: Sư quán sát chim mà nhận ra lông và hoa. Kệ nói:

鳥身非鳥                    Điểu thân phi điểu
花魂非花                    Hoa hồn phi hoa
行止饒他                    Hành chỉ nhiêu tha
我奈吾何                    Ngã nại ngôn hà."

Thân chim không phải là chim.
Hồn hoa không phải là hoa.
Đi hay đứng chỉ vì nó.
Chứ sá gì ta hay tôi.

Đoạn khác, xin trích từ Ngộ Thanh:

爾時法螺世尊在瓊林萬松山中暑極口渴而無水飲探窟求水見一長蛇取蛇吞之以解焦渴蛇乃化龍噴水而浮世尊世尊化作浮漚蕩漾水中師乃以手指浮漚念南無釋迦牟尼佛南無文殊菩薩南無普賢菩薩南無觀世音菩薩僧眾合掌師乃說法如初

(Nhĩ thời Pháp Loa Thế Tôn tại Quỳnh Lâm Vạn tòng sơn trung, thử cực, khẩu khát, nhi vô thuỷ ẩm. Thám khốt cầu thủy, kiến nhất trường xà. Thủ xà thôn chi, dĩ giải tiêu khát. Xà nãi hóa long, phún thủy nhi phù Thế tôn. Thế tôn hóa tác phù âu, đãng dạng thủy trung. Sư nãi dĩ thủ chỉ phù âu, niệm: Nam mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam mô Văn-thù Bồ tát, Nam mô Phổ Hiền Bồ tát, Nam Mô Quan Thế Âm Bồ tát. Tăng chúng hiệp chưởng, sư nãi thuyết pháp như sơ.): «Bấy giờ Pháp Loa Thế tôn ở nơi chùa Quỳnh Lâm, trong rừng Vạn tòng. Nóng bức, miệng khát, mà không có nước uống. Mò hang tìm nước, gặp một con rắn dài, liền bắt mà nuốt, để giải nóng khát. Tức thì rắn hóa thành rồng, phun nước làm cho Thế tôn trôi nổi. Thế tôn hoá ra làm bọt nước, lên đênh trên mặt nước. Sư lấy tay chỉ bọt nước, niệm: Nam mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam mô Văn-thù Bồ tát, Nam mô Phổ Hiền Bồ tát, Nam Mô Quan Thế Âm Bồ tát. Tăng chúng chấp tay. Sư lại thuyết pháp như trước

Nói rằng những đoạn trích dẫn trên đây bộc lộ khá rõ phong thái Nam hoa kinh, không phải là điều cưỡng ép, nói ngoa. ĐCVGT đã lấy âm thanh làm cội nguồn chảy ra một cái nhìn biến ảo phi thường của đời sống, và của vũ trụ. Chúng ta có thể đọc thấy trong Nam hoa kinh, thiên «Tề vật luận», như thế này:

南郭子綦隱机而坐仰天而噓答焉似喪其耦顏成子游立侍乎前曰何居乎形固可使如槁木而心固可使如死灰乎今之隱机也非昔之隱机者也子綦曰偃不亦善乎而問之也今者吾喪其我汝知之乎汝聞人籟而未聞地籟汝聞地籟而未聞天籟

(Nam Quách Tử Kỳ ẩn kỷ nhi tọa, ngưỡng thiên nhi khư, tháp yên tợ táng kỳ ngẫu. Nhan Thành Tử du lập thị hồ tiền, viết: hà cư hồ? Hình cố khả sử như cảo mộc, nhi tâm cố khả sử như tử hôi hồ? Kim chi ẩn kỷ dã phi tích chi ẩn kỷ giả dã. Tử Kỳ viết: Yển bất diệc thiện hồ nhi vấn chi dã. Kim giả ngô táng kỳ ngã, nhữ tri chi hồ? Nhữ văn nhân lại, nhi vị văn địa lại. Nhữ văn địa lại, nhi vị văn thiên lại.): «Nam Quách Tử Kỳ núp ghế mà ngồi, ngữa lên trời mà thở khà, dững dưng như chôn vùi bạn lứa. Nhan Thành Tử Du đứng hầu phía trước, nói: Ở vậy sao? Có thể làm cho hình hài như cây khô, cho tâm như tro lạnh được sao? Người tựa ghế hôm nay không phải phải là người tựa ghế xưa kia vậy. Tử Kỳ nói: Này Yển, há không phải khéo léo sao, mà hỏi như vậy! Nay ta đã chôn cái ta của ta, ngươi có biết chăng? Ngươi nghe tiếng sáo người mà chưa nghe sáo của đất. Ngươi nghe tiếng sáo của đất mà chưa nghe sáo trời.»

Nguyễn Đàm, khi giải về «Phát tưởng thanh» cũng lấy ý đó:

南郭子綦仰天而噓大禪師當食而噎同侍一般妙想

(Nam Quách Tử Kỳ ngưỡng thiên nhi khư. Đại Thiền sư đương thực nhi ế. Đồng thị nhất ban diệu tưởng.): «Nam Quách Tử Kỳ ngữa mặt lên trời mà thở khà. Đại Thiền sư đương ăn mà mắc nghẹn. Cũng là một cái tưởng mầu nhiệm như nhau cả.»

Lời giải này nhắm vào sự kiện được đề cử trong Phát tưởng Thanh:

海量大禪師當食而噎徒弟白師言師噎有想麼師答言我想非想未到非非想故噎

(Hải Lượng Đại Thiền sư đương thực nhi ế. Đồ đệ bạch sư ngôn: Sư ế, hữu tưởng ma? Sư đáp ngôn: Ngã tưởng phi tưởng, vị đáo phi phi tưởng, cố ế.): «Đại Thiền sư Hải Lượng đương ăn mà mắc nghẹn. Đồ đệ hỏi: Thầy nghẹn, có tưởng chăng? Sư đáp: Cái tưởng của ta là phi tưởng, chứ chưa đến cái phi phi tưởng, cho nên nghẹn.»

Thế thì, Sư mà nghẹn, là vì cái tưởng của Sư chưa ứng với cái tiếng sáo trời, nó đang hoạt động trong khoảng hữu hình, và hữu vi. Tiếng sáo trời như không, mà có. Một cách tượng hình hơn, ĐCVGT mô tả tiếng sáo trời như tiếng vọng mơ hồ thoảng qua tai của người đang ngủ. Trong lúc ngủ, mọi giác quan đều đóng lại. Bấy giờ, cái tác dụng nghe của lỗ tai là cái không tác dụng. Âm thanh thoảng qua tai trong lúc say ngủ, quả là sự biến hiện phi thường của vũ trụ. Chính chỗ này mới cho ta thấy đâu là phong thái Nam hoa kinh trong ĐCVGT.

3. BIỆN CHỨNG ÂM DƯƠNG.

Nguyên tắc âm dương của kinh Dịch được vận dụng để giải thích những tư tưởng trừu tượng của Đại thừa có một truyền thống lâu dài tại Trung Hoa. ĐCVGT khi vận dụng tích cực nguyên tắc âm dương, chúng ta thấy đã có sự thành hình của một hệ thống tư tưởng toàn diện. Nhờ thế mà tư tưởng Tam giáo lại càng có cơ sở vững chắc. Cái toàn diện của hệ thống tư tưởng đó, rồi chúng ta sẽ thấy, nó bao trùm tất cả mọi phương diện, về mặt bản thể tồn tại cũng như về mặt tác dụng của hiện hữu

Nói một cách tổng quát, lấy quan điểm của Thiệu Khang Tiết làm chính, nguyên tắc âm dương được vận dụng để thiết lập toàn diện thực tại, từ thể cho đến dụng. Trong tám quẻ, Thiệu Khang Tiết đề ra bốn quẻ: Hai quẻ Càn và Khôn là biểu tượng của thể, và hai quẻ Khảm và Ly là dụng. Vì rằng, thể thì ứng hợp với trời đất, còn dụng thì ứng hợp với nhân sự. Đây cũng là hệ thống phân phối các quẻ của Dịch trong Thượng kinh và Hạ kinh. Thượng kinh nói về đạo trời, nên bắt đầu bằng Càn-Khôn và chấm dứt bằng Khảm-Ly. Hạ kinh nói về nhân sự, nên bắt đầu bằng quẻ Hàm-Hằng, rồi chấm dứt với Vị tế-Ký tế. Quan điểm được Thiệu Khang Tiết trình bày theo đó thì sở dĩ bốn quẻ Càn Khôn Khảm Ly được chọn làm chủ cho thể và dụng, vì rằng, vị của chúng thống lĩnh tứ chính và tứ duy: Càn chủ lĩnh ở vị Tây Bắc, Khôn chủ lĩnh ở vị Tây Nam; Khảm chủ lĩnh chính Bắc và Ly chủ lĩnh ở chính Nam. Bốn phương vị này ứng hợp với bốn mùa. Quẻ Ly vốn là hỏa dương mà căn âm, nên nó ứng từ tiết Đông chí cho đến tiết Kinh chập, gồm 15 quẻ, từ quẻ Phục cho đến quẻ Đồng nhân (trong đó trừ quẻ Ly, không ứng vào các khí tiết).

Như vậy, quẻ Ly chủ lĩnh ba tháng: Tháng 11 (Tý), 12 (Sửu) và tháng Giêng (Dần).

Quẻ Càn cũng chủ lĩnh ba tháng: Các tháng 2, 3 và 4, từ tiết Xuân phân cho đến tiết Mang chủng, bắt đầu từ quẻ Lâm cho đến quẻ Quải.

Quẻ Khảm, thủy âm mà căn dương, gồm các tháng 5, 6 và 7, từ tiết Hạ chí đến tiết Bạch lộ, bắt đầu từ quẻ Cấu đến quẻ Sư.

Quẻ Khôn, các tháng còn lại, từ tiết Thu phân đến tiết Đại tuyết, từ quẻ Độn đến quẻ Bác.

Chúng ta thấy quan điểm trên đây được trình bày thành hệ thống trong bản đồ «Nhị thập tứ thanh phối khí ứng sơn» của ĐCVGT. Giải thích sự phối hợp giữa âm thanh bằng tương quan giữa âm dương và khí tiết cũng được Thiệu Khang Tiết phát biểu như sau.

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

free counters

un compteur pour votre site