lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

Weblinks:

 

Tư Tưởng Của Phật Giáo

Thiền Trúc Lâm Tư Tưởng Triết Lý

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9

ĐINH QUANG MỸ

Vì biết rằng hoa và bướm chỉ là tuồng ảo hóa, nên Sư cũng đã làm phép lạ chơi, vận pháp thuật bay lên không, để cho vua và quần thần vỗ tay cười ầm ĩ?

Tất cả những hành động trên được giải thích như thế nào? Phải chăng, trong con mắt nhân gian, những bậc đạo cao đức trọng hẳn cũng là hàng pháp thuật cao cường? Vì có thế, cái sở đắc của họ mới đáp ứng được sở thích của quần chúng?

Những sở thích của quần chúng, có cái nhất thời, cũng có cái trường cửu. Cái nhất thời chỉ cốt để mạn đàm, tán thưởng mà chơi. Cái trường cửu nơi họ mới chắc chắn là cái khát vọng đáng nói. Đó chính là lý tưởng thịnh trị của quốc gia. Những tin tưởng về luân hồi, nghiệp báo, nếu chúng ta gạt ra ngoài khía cạnh triết học tôn giáo, thì y nhiên đó là khát vọng bình an của quần chúng trong lý tưởng thịnh trị của quốc gia. Phật giáo Việt Nam được phát triển trong chiều hướng lý tưởng thịnh hóa của Phật giáo và lý tưởng thịnh trị của quốc gia, thì hẳn nhiên vai trò tín ngưỡng nhân gian đã có ưu thế.

Đến đây, có thể nói, chúng ta đã có một bối cảnh khá xác thực về sự hình thành của phái Thiền Trúc Lâm.

TIẾT HAI: NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG TƯ TƯỞNG TRÚC LÂM.

Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, và Trần Nhân Tông là ba nhân vật Phật Giáo sáng chói của triều đại nhà Trần. Mặc dù duy chỉ Trần Nhân Tông thực thụ là Tông sư của môn phái Thiền, nhưng tinh thần của môn phái này đã từng được thể hiện nơi cả Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đời sống của ba vị ấy, sở học cũng như sở hành và sở đắc của họ, đều không chỉ kết tinh yếu chỉ Phật học một thời. Nơi họ, chúng ta có thể tìm thấy những nét chính, những điểm sáng tạo và sáng giá nhất của Thiền học Trúc Lâm Yên Tử. Tiết này dành nói riêng những nét chính đó.

I. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO.

 Cư trần lạc đạo nguyên là một bài phú của Trần Nhân Tông, gồm 10 hồi, được viết bằng chữ Nôm, và được ấn hành trong TTBH. Bài phú này cho ta biết nhân sinh quan của vị khai tổ Thiền Trúc Lâm. Cái nhân sinh quan đó cũng có thể tìm thấy nơi Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Bài phú " Cư trần lạc đạo" được kết thúc bằng một bài thơ Hán nói về yếu chỉ của Thiền tông tuyệt cú như sau:

居塵樂道且隨緣        Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
饑則餐兮困則眠        Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
家中有寶休尋觅        Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
對境無心莫問禪        Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Giữa trời, vui đạo, cứ tùy duyên
Đói ăn, nhọc ngủ, có chi phiền?
Trong nhà của qúi, tìm đâu nữa,
Đối cảnh, lòng không, lọ phải Thiền.

Cũng phong thái tương tợ, chúng ta thấy nơi Tuệ Trung Thượng Sĩ, với "Phóng cuồng ca":

饑則餐兮和羅飯        Cơ tắc xan hề hòa-la phạn
困則眠兮何有鄉        Khốn tắc miên hề hà hữu hương.

Lúc đói thì xơi bát cơm hòa la
Lúc nhọc thì ngủ ở chốn không đâu.

Yếu chỉ "Cư trần lạc đạo" muốn nói rằng, ngay giữa cõi đời náo nhiệt mà vẫn có thể hưởng được cái thú thanh tao của Thiền. Rõ ràng, đó là một nhân sinh quan phóng khoáng của những con người vô cầu, vô trước, mà vẫn "nặng tình non nước". Vì vậy, hồi thứ nhất của bài phú cư trần lạc đạo đã mở đầu rằng:

Mình ngồi thành thị,
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tánh
Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm.

Trong đạo lý của Thiền, một khi tâm và cảnh cùng tương giao tương ứng, không cốc truyền thanh, thì mọi hành vi đều là đạo. Mà cảnh của Thiền thì lúc nào cũng "Mù tỏa Lô Sơn khói Chiết giang" cho nên tâm của Thiền cũng luôn luôn tương ứng với "Mù tỏa Lô Sơn khói Chiết giang", như nhà thơ Tô Đông Pha đã mô tả:

蘆山煙鎖浙江潮        Lô Sơn yên tỏa Chiết giang triều
未到生平恨不消        Vị đáo sinh bình hận bất tiêu
到得還來無別事        Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
蘆山煙鎖浙江潮        Lô sơn yên tỏa Chiết giang triều.

Hoặc giả, cũng có thể nói ngược lại, rằng một khi tâm Thiền là biển cả trầm lặng bao la, thì cảnh Thiền cũng là cả một bầu trời trăng sao tương ứng. Như bài thơ tuyệt cú của Trần Nhân Tông, kết thúc cho bài ca "Đắc thú lâm thuyền thành đạo":

境寂安居自在心        Cảnh tịch an cư tự tại tâm
涼風吹遞入叢林        Lương phong xuy đệ nhập tòng lâm
禪床樹下一經卷        Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển
兩自清閒勝萬金        Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm (kim)

Cảnh tĩnh, khi tâm an nhiên tự tại, hay ngược lại, tâm an nhiên tự tại khi khám phá ra rằng cảnh luôn luôn vẫn tĩnh như thế. Rồi từ tâm ấy phát hiện ra, ứng với ngọn gió trong mát thổi vào hàng thông. Và Thiền sư kết Thiền sàng ngồi dưới gốc cây, cùng với một quyển kinh. Đó là lúc hai chữ «thanh nhàn» đi về lồng lộng cao quí hơn cả mọi thứ sang trọng trần gian.

Nhưng chúng ta đừng tưởng với nhân sinh quan đó, Thiền sư là một kẻ theo chủ nghĩa hưởng lạc, phóng túng hình hài theo thú vui. Thiền luôn luôn vẫn có sự câu thúc. Một sự câu thúc tự nhiên nghĩa là:

Chuyển tam độc mới chứng tam thân
Đoạn lục căn nên trừ lục tặc.

(Cư trần lạc đạo phú, hồi thứ 4)

Và như vậy, thú vui của Thiền chỉ có, một khi:

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí,
Thị phi tiếng lặng, được dù nghe én hót oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý,
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mổ chủ tri âm

(Cư trần lạc đạo phú, hồi thứ nhất)

Nhân sinh quan Cư trần lạc đạo của Thiền Trúc Lâm được kết tinh nơi Huyền Quang Tôn giả, một nhà thơ lãng mạn của cửa Thiền, được chân truyền làm Tổ thứ ba của Trúc Lâm Yên Tử. Nơi Huyền Quang, chúng ta có thể thấy tình tự lãng mạn của Thiền được phát hiện trong cảnh chùa vắng, chuông khuya, lẫn trong tiếng quạ kêu và trăng lạnh:

上方秋夜一終闌        Thượng phương thu dạ nhất chung lan
月色如波風樹丹        Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
鴟吻倒眠方鏡冷        Chi vẫn đảo miên phương kính lãnh
塔光雙峙玉尖寒        Tháp quang song trỉ ngọc tiêm hàn
萬緣不擾城遮俗        Vạn duyên bất nhiễu thành già tục
半點無憂眼放寬        Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan
參透是非平等相        Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
魔宮佛國好生觀        Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

Trần Tuấn Khải dịch:

Đêm thu chùa đổ tiếng chuông khuya
Sóng tựa màu trăng, phong đỏ lòe
Chiếc quạ ngủ say gương lạnh ngắt
Đôi hàng tháp đứng ngọn tròn xoe
Bức thành ngăn tục duyên không vướng
Tầm mắt buông xa dạ chẳng hề
Bình đẳng thị phi đà thâú rõ
Cung ma nước Phật khác nhau chi?

Thiền đến chỗ đó là mất hết biên giới trần và đạo. Cả hai là một cuộc đời toàn diện. Khi làm vua, khi làm tướng hay khi làm Thiền sư, mọi hoạt động đều là sự phát động tự nhiên của đời sống toàn diện kia.

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

free counters

un compteur pour votre site