lịch sử việt nam
Chân Dung Phụ Nữ Việt-Nam Qua Lịch-Sử
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18
Trần Văn Giang
...
C- Nữ lưu được dân gian quý mến
1- Được quý mến vì Tài:
1.1- Bà Đoàn Thị Điểm
Bà Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) là vị nữ sĩ danh tiếng nhất của Việt Nam thời Lê, tác giả bản dịch Nôm “Chinh phụ ngâm.”
Tiểu sử
Bà Đoàn Thị Điểm sinh năm 1705, hiệu Hồng Hà, biệt hiệu Ban Tang. Quê tại làng Hiến Phạm, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Do lấy chồng họ Nguyễn nên bà còn có tên là Nguyễn Thị Điểm.
Bà là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi, mẹ Bà là người họ vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ) sinh một trai (năm 1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (năm 1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ anh em Bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái lĩnh bá, và được dạy dỗ chu đáo làu thông Tứ thư, Ngũ kinh như anh Bà.
Bà Đoàn Thị Điểm là người có tài trí và nhan sắc hơn người, nổi tiếng từ hồi trẻ. Năm 6 tuổi đã học rất giỏi. Năm 16 tuổi, có quan thượng thư Lê Anh Tuấn mến mộ muốn xin làm con nuôi, để tiến cử vào cung chúa Trịnh, nhưng Bà nhất định từ chối. Về sau cha mất, gia đình phải chuyển về quê nhà, được ít lâu dời về làng Võ Ngai, tại đây Bà Đoàn Thị Điểm cùng anh trai Đoàn Luân hành nghề dạy học.
Nhưng ông Luân mất sớm, Bà Đoàn Thị Điểm lại đem gia đình lên Sài Trang, ở đây bà được vời dạy học cho một cung nữ. Thời gian này Bà kiêm luôn nghề bốc thuốc, gần như một tay nuôi sống cả gia đình - gồm 2 cháu nhỏ, mẹ và bà chị dâu goá. Bởi tài năng và sắc đẹp cộng với tính hiếu thuận rất đáng quý, bấy giờ Bà được nhiều người cầu hôn nhưng nghĩ đến gia đình đành chối từ tất cả.
Năm 1739 Bà lại dẫn gia đình về xã Chương Dương dạy học.
Năm 1743, sau một lời cầu hôn bất ngờ và chân thành, Bà nhận lời làm vợ kế Binh bộ tả thị lang Nguyễn Kiều, đang góa vợ, rồi theo ông về kinh đô. Ông Nguyễn Kiều sinh năm 1695, đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, nổi tiếng là người hay chữ. Sau đám cưới vài ngày, thì ông Kiều phải đi sứ sang Tàu. Thời gian này Bà Đoàn Thị Điểm còn nghiên cứu thiên văn, bói toán và viết sách...
Năm 1746, ba năm chờ chồng dài đằng đẳng vừa kết thúc, Bà lại phải khăn gói, từ biệt mẹ già cháu nhỏ để sang Nghệ An, nơi ông Kiều mới được triều đình bổ nhiệm. Sang Nghệ An buồn bã quá, một phần nhớ người thân lại thêm lạ nước lạ cái, bệnh hoạn xuất hiện rồi ngày càng phát, đến ngày 9 tháng 11 năm 1748 (âm lịch), Bà Đoàn Thị Điểm qua đời, hưởng dương 44 tuổi.
Sự kính yêu của người đời sau với Bà Đoàn Thị Điểm không chỉ vì tài thi văn điêu luyện, đặc sắc, còn vì Bà có những phẩm chất cao quý, đức hạnh tốt đẹp xứng đáng là mẫu phụ nữ tiêu biểu của xã hội Việt Nam ở mọi thời đại.
Sự nghiệp
Bà Đoàn Thị Điểm được xem là đứng đầu trong số các nữ sĩ danh tiếng nhất Việt Nam (sau đó là Bà huyện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Sương Nguyệt Ánh).
Bà làm thơ rất hay, tiếng tăm đã nổi từ 15 tuổi, được những bậc hay chữ cùng thời như Ngô Thì Sĩ, Đặng Trần Côn tán thưởng.
Khi Bà dạy học ở kinh thành và Chương Dương xã đều được rất đông học sinh tới học, trong đó có người sau này đỗ tiến sĩ là ông Đào Duy Ích.
Tác phẩm
Bà Đoàn Thị Điểm viết sách nhiều nhưng thất lạc cũng nhiều, hậu thế chỉ còn biết đến một vài tác phẩm Hồng Hà nữ sĩ gồm:
- “Tục truyền kỳ”
Còn gọi là “Truyền kỳ tân phả,” sách viết bằng chữ Hán.
- “Chinh Phụ Ngâm”
Là bản việt hoá của tác phẩm “Chinh Phụ Ngâm” bằng hán văn của ông Đặng Trần Côn sáng tác. Bản dịch gồm 412 câu theo lối song thất lục bát, trong diễn tả nhiều tâm trạng: hy vọng, buồn bã, giận hờn tựu về một mối đó là nỗi nhớ nhung khắc khoải của một người chinh phụ (vợ có chồng đi lính) đang chờ chồng trở về sum họp.
Đây có lẽ cũng là tâm trạng của bà Đoàn Thị Điểm trong các năm 1743 - 1746 khi ông Nguyễn Kiểu đi sứ sang Trung hoa.
Tuy là bản dịch, nhưng thậm chí còn được yêu thích hơn bản chính, nên đến nay được xem như là một sáng tác của Bà Đoàn Thị Điểm.
Tác phẩm từng được dịch ra tiếng Pháp bởi những nhà văn trong nhóm Mercure de France, với tên Les Plaintes d’une Chinh phu (1939). Sau này giáo sư Takeuchi dịch ra tiếng Nhật, với tên Seifu Ginkyoku.
Cùng với Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà nữ sĩ được xem là tác phẩm ưu tú nhất của nền thi văn trung đại Việt Nam.
Giai thoại về những câu đối
Bà Đoàn Thị Điểm còn là một nữ sĩ nổi tiếng với nhiều giai thoại về khả năng xuất khẩu tài tình: Đêm trăng, anh trai Đoàn Doãn Luân từ ngoài bờ ao vào thấy Bà Đoàn Thị Điểm đang soi gương bèn đọc:
Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm
(Nghĩa là: Soi gương vẽ mày, một chấm hóa thành hai chấm)
Bà Đoàn Thị Điểm đáp ngay:
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân
(Nghĩa là: Ra ao ngắm trăng, một vầng chuyển hóa hai vầng)
Thật là khéo, nội dung đúng như bối cảnh, người vẽ lông mày, người ngắm vầng trăng, lại vận được tên cả hai anh em.
"Da trắng vỗ bì bạch"
Tương truyền một lần Bà Đoàn Thị Điểm đang tắm còn Trạng Quỳnh đang đợi ngoài cửa và đứng ngoài đập cửa đòi vào. Bà Đoàn Thị Điểm đã ra câu đối "Da trắng vỗ bì bạch" và giao hẹn nếu đối được thì đồng ý. Nhưng với câu đối này, Trạng Quỳnh không thể đối lại được.
Có người cho rằng nhân vật nữ trong giai thoại trên có thể là Bà Hồ Xuân Hương (?) Cũng có giả thuyết nói Trạng Quỳnh chỉ là nhân vật hư cấu và các câu chuyện Trạng Quỳnh lấy lại từ điển tích Trung hoa (?)
Ngày nay, có người đưa ra một số vế đối cho "Da trắng vỗ bì bạch" không hoàn chỉnh về luật đối như “Rừng sâu mưa lâm thâm” (bởi một giáo sư văn học thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), “Trời xanh màu thiên thanh,” “Giấy đỏ viết chỉ chu,” “Gái đường thích điếm đàng.” Quyển “Thế Giới Mới” đăng câu “Tay tơ sờ tí ti,” với giải thích như sau: "Tí" nghĩa chữ Hán là "tay,” còn "ti" nghĩa là "sợi tơ.” "Tay tơ" là tay người trai trẻ. "Tí ti" còn có nghĩa là chút ít, và còn để chỉ nhũ hoa của người phụ nữ?!).
Đối đáp với Trạng Nguyễn
Bà Đoàn Thị Điểm có lần gặp Trạng Nguyễn và hai người cùng đi tìm đường đến phố Mía (phố chuyên kéo mía làm mật, đường). Trên đường đi, Bà đã phải hỏi đường một cô hàng mật. Gần đến nơi, Bà ra vế đối:
“Lên phố Mía, gặp cô hàng mật. Cầm tay kẹo lại, hỏi thăm đường.”
Trạng Nguyễn không đối lại được đành cúi đầu bái biệt.
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18
Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử