lịch sử việt nam
Xin mời Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử trên Facebook
Hồ sơ tội trạng của Henry Kissinger 3
Nguyên tác : Chistopher Hitchens
Dịch giả : Đỗ Kim Thêm
Giới thiệu sách:
Chistopher Hitchens, The Trials of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001.
Đại ý:
Tội ác của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam là một đề tài bất tận. Lúc chiến tranh còn khốc liệt đã có những trí thức ngoại quốc tên tuổi như Jean Paul Sartre, Bertrand Russell và Noam Chomsky lên tiếng kêu gọi thành lập toà án quốc tế nhằm xét xử sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Khi chiến tranh kết thúc thì vấn đề này không còn ai quan tâm, phần lớn các tác phẩm xoay quanh chủ đề Việt Nam đều nói về sự sai lầm của Hoa Kỳ. Nhưng có một ký giả đã đặt lại vấn đề này và tự nhận mình có trách nhiệm như một thẩm phán công tố và lập hồ sơ để truy tố một nhân vật đã gây tội ác trong chiến tranh Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Thủ phạm được gọi đích danh là Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người đã ký kết Hiệp Định Paris. Tội danh được cáo buộc là: tội ác gây chiến tranh, tội ác chống nhân loại, đặc biệt qua các vụ âm mưu tạo phản loạn, mưu sát, bắt cóc và tra tấn. Với các tội danh này tác giả yêu cầu Toà Án Quốc Tế phải xét xử đương sự. Đó chính là nội dung chủ yếu của cuốn sách được giới thiệu trong bài viết này.
Tác giả:
Chistopher Hitchens là một ký giả Hoa Kỳ gốc Do Thái, chuyên về săn tin điều tra và viết bình luận cho tờ The Nation và The Harper Magazine tại Hoa Kỳ. Ông nổi tiếng qua các loạt bài về phóng sự đìều tra nhắm vào mặt trái của các nhân vật tên tuổi như Mẹ Theresa, Công chúa Diana và Tổng Thống Clinton.
Tác giả Christopher Hitchens
...
Tác giả cũng tố giác việc Hoa Kỳ đếm xác người Việt để báo cáo lấy thành tích, điều mà họ không phân biệt thường dân hay quân nhân. Một thí dụ được nêu lên để minh chứng là số tử thương chính thức từ tháng 03/1968 cho đến tháng 02/1972: Hoa Kỳ: 31.205, Nam Việt Nam: 86.101 và đối phương: 475.609. Cũng nên biết là trong thởi kỳ này Hoa Kỳ đả bỏ 4.500.000 tấn chất nổ xuống Đông Dương. Theo ước lượng của Thượng Viện Hoa Kỳ thì ít nhất có trên ba triệu thường dân thiệt mạng. Một con số khác được CIA đưa ra là chỉ có 35.708 thường dân bị bắt cóc và giết chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, cũng là điểm đáng nghi ngờ. Những con số này được Henry Kssinger đưa ra để phần lừa dối, phần dấu nhẹm công luận và tránh áp lực của Quốc Hội. Tác giả đã trích dẫn Nhật ký của Haldeman để dẫn chứng sự kiện này ở cuối chương sách.
Chương 4 nhằm cáo giác tội diệt chủng và âm mưu đảo chánh của Henry Kissinger tại Bangladesh.
Tháng 12/1970 phe quân phiệt Pakistan cho phép bầu cử tự do. Kết quả là phe Sheikh Mujibur Rahman thắng cử dễ dàng và chiếm đa số ghế trong Quốc Hội. Theo dự kiến thì ngày 03/03/1971 Quốc Hội sẽ triệu tập phiên họp đầu tiên. Đúng ngày 01/03/1971 Tướng Yakya Khan tuyên bố đình hoãn việc này khiến cho dân chúng nổi dậy chống đối. Quân đội can thiệp mạnh vào thủ đô Dhaka và bắt giữ Scheich Mujibur Rahman, ký giả ngoại quốc bị trục xuất. Bất bình trước các đàn áp thô bạo này Tổng lãnh Sự Hoa Kỳ tại Dhaka là Archer Blood gởi điện văn phản đối sự chậm trễ can thiệp của Hoa Kỳ. Việc này đựơc đa số nhân viên Toà Lãnh Sự ủng hộ. Quân đội tiếp tục đàn áp sinh viên và dùng súng bắn vào các cư xá đại học. Các vũ khí này do Hoa Kỳ cung cấp trong chương trình viện trợ phát triển. Trong 3 ngày đầu theo tác giả có tới 10.000 thường dân bị chết. Tổng số nạn nhân trong cuộc đàn áp này được ước lượng tối thiểu từ hơn nửa triệu cho đến đến ước lượng tối đa là ba triệu thường dân. Trước tình hình cực kỳ sôi động, Đai Sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ là Kenneth Keating trong điện văn ngày 29/03/1971 yêu cầu Hoa Kỳ phải có biện pháp ngăn chặn. Kết quả đạt được là Henry Kissinger đã cách chức Archer Blood và cảnh cáo Kenneth Keating. Vào cuối tháng tư 1971 là thời kỳ cao điểm của sự đàn áp, đích thân Tướng Yahya Khan đã gởi thư cảm tạ Henry Kissinger về sự hợp tác.
Theo tài liệu của sử gia Lawrence Lifschultz thuộc Đại Học Yale thì Henry Kissinger phải làm ngơ vì vào thời điểm này Pakistan đang làm trung gian cho việc nối lại bang giao giữa Hoa Kỳ và Tàu cộng. Ngay trong phiên họp tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 06/03/1971 do Henry Kissinger triệu tập, thì mọi đề nghị can thiệp đều bị Henry Kissinger bác bỏ, kể cả việc cảnh cáo Tuớng Yahya Khan phải tôn trọng kết quả bầu cử. Thái độ của Henry Kissinger cho thấy là ông không tôn trọng nguyện vọng dân chủ của nhân dân Bangladesh. Sau này khi Mujibur đi thăm Hoa Kỳ vào năm 1974 với tư cách là quốc trưởng, ông tẩy chay không gặp trong một cuộc tiếp xúc trong 15 phút mà chính Tổng Thống Ford đã chấp thuận. Tháng 11/1974 ông đến thăm Bangladesh trong vòng tám tiếng đồng hồ và chỉ mở một cuộc họp báo trong ba phút. Theo những tài liệu thì ông đến để sắp xếp cuộc đảo chính Mujibur. Ngày 14/08/1975, Mujibur và 40 tùy tùng đã bị hành quyết trong một cuộc đảo chính. Những chi tiết liên quan với David Eugene Booster, Đại Sứ Hoa Kỳ và Phipp Cherry, Trưởng Cơ Quan Tình Báo CIA tại Bangladesh được tác giả dẫn chứng. Trong có một cuộc điều tra về âm mưu đảo chánh của Henry Kissinger do Tổ chức Carnegie thực hiện với sự tham dự của 150 viên chức Bộ Ngoại Giao và CIA, nhưng kết quả này không được công bố, vì chính áp lực của Henry Kissinger.
Chương 5 nhằm vạch trần tội trạng của Henry Kissinger tại Chí Lợi trong khi triển vọng phát triển dân chủ tại xứ này đang thành hình.
Hoa Kỳ tổ chức lật đổ chính quyền Allende
Tháng 09/1970, phe tả của ông Salvador Allende thắng thế với đa số phiếu 36,2% trong cuộc bầu cử Tổng Thống. Sự phân hoá chính trị trong cánh hữu và bảo thủ càng trầm trọng hơn khiến cho các doanh nghiệp Mỹ tại Chí Lợi như ITT, Pepsi-Cola và Ngân Hàng Chase Manhattan thấy làm ăn khó khăn hơn; triển vọng bang giao kinh tế hai nước theo chiều hướng này cũng xấu đi. Sau khi thoả thuận với Donall Kendall, Chủ tịch tập đoàn Pepsi-Cola, David Rockefeller, Chủ tịch Ngân hàng Chase Mahattan và Richard Helms, Giám Đốc CIA, Henry Kissinger cùng Richard Helms đến gặp Richard Nixon để tìm cách giải quyết vấn đề. Richard Nixon đồng ý kế hoạch ngăn trở Allende lên nắm quyền, phí tổn chấp thuận là 10 triệu đô-la và kế hoạch hành động trong vòng 48 tiếng đồng hồ và Toà Đại sứ Hoa Kỳ không được liên can.
Theo các tàl liệu được giải mật sau này cho thấy Henry Kissinger thoạt đầu không quan tâm đến tình hình của Chí Lợi nhiều, nhưng ông cũng tham gia vì muốn chứng tỏ thực tài cho Richard Nixon thấy mà thôi. Theo kế hoạch của Henry Kissinger thì một toán đặc nhiệm công tác được hình thành từ Langley, Virginia. Tổ chức gồm hai đường dây: chính thức (qua ngã ngoại giao) và bí mật (không thông qua Bộ Ngoại Giao và Toà Đại Sứ), nhằm tổ chức đảo chính và bắt cóc Tướng Tư Lệnh Quân Đội René Schneider, mỗi sĩ quan tham gia được tặng 50.000 đô-la. Hai người trực tiếp điều hành kế hoạch này là Richard Helms và Thomas Karamessines. Toán công tác nhận định rằng tình trạng phân hóa trong quân đội, sự trung thành đối với Tướng René Schneider và Hiến Pháp sẽ làm trì trệ kế hoạch. Nhưng Henry Kissinger bất chấp và ra lệnh phải tiến hành. Ngay trong đường dây thứ hai thì chính Henry Kissinger cũng chia làm hai loại nhóm tướng lãnh của Chí Lợi để hợp tác khác nhau. Nhóm thứ nhất là Tướng Roberto Viaux và Arturo Marshall. Nhóm này đã có lần tổ chức đảo chánh vào năm 1969 nhưng không thành công và bị quân đội cũng như chính giới không coi trọng. Nhóm thứ hai, tương đối khả kính hơn do Tướng Camilo Valenzuela cầm đầu. Henry Kissinger chấp thuận cung cấp vũ khí cho Tướng Roberto Viaux, người thi hành kế hoạch này. Sau thời gian tiếp xúc thì CIA nghi ngờ khả năng hành động của nhóm Tướng Roberto Viaux, dù trước đó đã giao 20.000 đô la tiền mặt và một khế ước bảo hiểm nhân thọ cho y với trị giá 250.000 đô la. Cuối cùng Richard Nixon đi đến quyết định ủng hộ nhóm Tướng Valenzuela và thúc hối hành động. Đêm 18/10/1970, nhóm của Tướng Valenzuela tổ chức bắt cóc Tướng Schneider nhưng thất bại vì ông này vào giờ chót đổi ý dùng xe riêng đi thay vì công xa. CIA hốt hoảng, thúc hối nhanh hơn và tiếp tục trả thêm cho nhóm Tướng Valenzuela 50.000 đô-la nữa. Đêm 20/10/1970, một cuộc bắt cóc lần thứ hai lại thất bại. Ngày 22/10/1970 CIA tiếp tục giao vũ khí cho nhóm Tướng Valenzuela. Nhưng cùng ngày này thì Tướng Scheider lại bị giết bởi nhóm của Tướng Roberto Viaux. Do tài liệu của Toà án Quân Sự Chí Lợi sau này cho thấy thủ phạm lại chính là người cùng một lúc ở trong hai nhóm của hai đường giây khác nhau. Trong tất cả các tài liệu của Hoa Kỳ người ta không tìm ra được một bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ công khai ra lệnh giết hoặc bắt cóc và thủ tiêu Tướng Schneider. Trong việc chuyển giao vũ khí cho Tướng Valenzuela cũng không có một văn bản nào kết luận được là Hoa Kỳ giao vũ khí để sử dụng vào mục tiêu thanh toán Tướng Schneider.
Những bằng chứng được tác giả nêu ra là:
1. Brian MacMaster, một nhân viên CIA, lúc đó giả dạng là một doanh nhân làm ăn tại Chí Lợi, khai rằng sau vụ mưu sát này CIA vẫn tiếp tục trả tiền cho các thuộc viên của nhóm Tướng Viaux bị ngồi tù để buộc phải câm tiếng.
2. Đại Tá Paul M. Wimert, Tùy viên Quân sự Toà Đại Sứ, là người chịu trách nhiệm liên lạc với nhóm Tướng Valenzuela, khai rằng, sau vụ mưu sát ông đòi Valenzuela trả 50.000 đô la và 3 khẩu súng lại và ông vứt vũ khí này xuống biển để phi tang. Người đồng lõa với ông là Henry Hecksher, Trưởng nhóm CIA, trước đó đã xác nhận với Washington là cả hai nhóm hợp tác đều có khả năng thực hiện đảo chánh thành công.
3. Trong văn thư của Henry Kissinger gởi đi ngày 15/10 không có bằng chứng nào chứng tỏ là Hoa Kỳ đình chỉ hợp tác với nhóm Tướng Viaux. Ngược lại điện văn của Bộ Ngoại Giao gởi cho Henry Hecksher ngày 20/10 cho thấy sự lo lắng cuả các giới chức cao cấp khi hay tin hai lần mưu sát Tướng Schneider bất thành. Sau này Thomas Karamesines xác quyết là sự quan tâm này đến từ Henry Kissinger.
4. Đại Sứ Edward Korry cũng khai rằng Henry Kissinger đã ép ông đứng ra nhận hết tội trong vấn đề này vì Henry Kissinger cho là xui xẻo và không muốn dính tới.
Ở cuối chương tác giả trích dẫn những đoạn trong Hồi Ký của Henry Kissinger qua những lần gặp gỡ Augusto José Pinochet và so sánh quan điểm trình bày với những biên bản chính thức của Bộ Ngoại Giao. Những vấn đề nhân quyền, đàn áp đối lập, bang giao hai nước và phát triển tổ chức Châu Mỹ La tinh (OAS) viết ra đều trái ngược nhau.
Chương 6 bổ túc thêm về tội trang của Henry Kissinger về vụ Chí Lợi. Kết quả một cuộc điều tra vào tháng 09/2000 được gọi là Hinchey Amendment cho thấy những yếu tố mới :
- CIA đã hợp tác với ba nhóm tướng lãnh khác nhau để đảo chánh, chứ không phải là hai nhóm như được biết từ trước đến nay. Cả ba nhóm đều đồng ý là phải bắt cóc Tướng Schneider, vì ông này chủ trương quân đội phải tuân theo hiến pháp và đồng ý cho Allende nắm quyền. CIA chỉ cung cấp vũ khí cho một nhóm tướng lãnh mà thôi và không có ý định giết Tướng Schneider. Cuối cùng CIA hợp tác với nhóm thứ hai, nhưng trước đó bốn ngày đã ngưng yểm trợ vì nhận định là đảo chánh sẽ không thành công.
Thư-Viện Bồ Đề online @ Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam***
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử