lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Trí-Lực:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Tin Tức Thời Sự Việt Nam Quốc Tế 

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

nơi hội tụ của những tâm hồn trăn-trở về nhân-sinh quan và vũ-trụ quan

đồng thời xiển-dương Chánh Tín_bài trừ Mê-Tín Dị Đoan 

 

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Trúc-Lâm Yên-Tử đăng tải để độc giả có thêm tài liệu tham khảo.

***

Phạm-đình-Lân | Vài Suy Nghĩ Về Tướng Võ-nguyên-Giáp

(1911- 2013)

 PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.

Quảng Bình là vùng biên giới giữa nước Việt Nam cổ với Chiêm Thành (Champa).  Vào thế kỷ XVII đó là bải chiến trường trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh (1627- 1672).  Sông Gianh là đường ranh phân chia giữa Đàng Trong (Nam Hà) của họ Nguyễn và Đàng Ngoài (Bắc Hà) của vua Lê, Chúa Trịnh.  Vào thế kỷ XX Quảng Bình là tỉnh sinh quán của vài nhân vật chánh trị gây nhiều tranh cải trong lịch sử giữa những người ủng hộ và chống đổi như tổng thống Ngô Đình Diệm (sinh ở Huế nhưng gốc ở Quảng Bình), đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng tọa Thích Trí Quang và thiếu tướng Đỗ Mậu.  Trong bài viết ngắn ngủi này tôi xin trình bày vài ý nghĩ cá nhân đối với tướng Võ Nguyên Giáp vừa mất ngày 04-10-2013 vừa qua thọ 102 tuổi.

Võ Nguyên Giáp: Một Nhà Giáo

Võ Nguyên Giáp học luật và được truyền tụng rằng ông từ chối không học môn hành chánh thuộc địa (Administration Coloniale).  Có người cho rằng ông có cử nhân luật năm 1937.  Cũng có người cho rằng ông chưa hoàn tất ba chứng chỉ để hoàn thành cử nhân luật.Ông lập gia đình với Nguyễn Thị Quang Thái, em của Nguyễn Thị Minh Khai bị xử tử ở Hốc Môn năm 1941 sau cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa thất bại.  Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong và là người được xem có liên hệ tình cảm với Lin (tức Hồ Chí Minh sau này) ở Hồng Kông vào 1930.  Võ Nguyên Giáp dạy Sử và Địa Lý ở tư thục Thăng Long sau khi có gia đình.  Dạy học là phương tiện mưu sinh của phần lớn những nhà trí thức Việt Nam.  Hầu hết những người hoạt động cách mạng dù thuộc khuynh hướng Cọng Sản hay Quốc Gia đều núp bóng ở các trường học nhất là các trường tư thục và cả trường công lập nữa.  Trường học là nơi tập trung thanh thiếu niên có học và có nhiều nhiệt huyết và lý tưởng.  Thầy giáo tương tự như các thầy tu.  Họ có ảnh hưởng nhất định đối với học sinh và phụ huynh học sinh cũng như với quần chúng ngoài xã hội.  Các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám, Trần Văn Tuyên (VNQDD), Trần Khánh Dzư tức Khái Hưng (VNQDD), Vũ Hồng Khanh (VNQDD), Hồ Văn Mịch (VNQDD), Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường, Đoàn Văn Trương (Đệ Tứ), Nguyễn Ngọc Huy (DVQDD), Nguyễn Văn Kiểu (DVQDD- bào huynh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu)...đều là những nhà giáo.  Khi cần muu sinh và sự an toàn trong thời gian hoạt động bí mật người Cộng Sản mặc áo của nhà mô phạm. Nhưng khi cầm quyền thì nhà giáo là những người thiệt thòi từ quyền lợi đến quyền hành.  Họ được an ủi bằng câu: “Không tượng đồng bia đá nhưng cũng vẻ vang”.  Rất ít nhà giáo được kết nạp vào đảng Cọng Sản.  Được kết nạp vào đảng mới có điều kiện để thăng tiến địa vị trong xã hội.  Nhà giáo trong xã hội Cộng Sản rất thiếu thốn và bị chánh quyền theo dõi, ngờ vực vì:

-    về phương diện kiến thức họ là gạch nối giữa người trí thức và người mù chữ

-    về phương diện kinh tế và xã hội họ là gạch nối giữa người giàu và người nghèo, giới thượng lưu và hạ lưu.

Nhà giáo dễ có uy tín trong quần chúng. Đó là điều tối kỵ trong xã hội Cọng Sản vì cạnh tranh ảnh hưởng với đảng Cọng Sản. Trong xã hội Cọng Sản bác sĩ, luật sư, dược sư, dược sĩ, kiến trúc sư...vẫn được gọi là bác sĩ, luật sư, dược sư, dược sĩ, kiến trúc sư v.v. Nhưng giáo sư chỉ được gọi là giáo viên và sinh viên được gọi là học sinh đại học. Khoa trưởng được gọi là hiệu trưởng! Sự tiết kiệm từ ngữ này không phải là không có nguồn gốc chánh trị của nó vẫn biết rằng năm nào trong nước cũng cử hành ngày Nhà Giáo Quốc Tế (20-11). Bên cạnh khẩu hiệu Tôn Sư Trọng Đạo là câu thơ của Tố Hữu:

 “Thầy không theo đảng, em không theo thầy”.

Trong thời đại chúng ta có ba nhà giáo tham gia chánh trị và có địa vị quan trọng: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Tâm và Trần Văn Hương.  

Ông Trần Văn Hương là nhà giáo chân chính đúng nghĩa của nó. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, từng theo kháng chiến chống Pháp nhưng bỏ bưng biền ra thành sau khi thấy cuộc kháng chiến do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo nặng màu sắc Cọng Sản và sắt máu hơn là yêu nước. Ông ví chủ nghĩa Cộng Sản như bịnh dịch hạch và chủ nghĩa thực dân như bịnh dịch tả. Cả hai đều có vì trùng độc dẫn đến cái chết. Ra thành ông không hợp tác với Pháp và chánh phủ Bảo Đại mà làm thơ ký cho một nhà thuốc tây để sống qua ngày.

Ông từng là đô trưởng Sài Gòn (hai lần), thủ tướng (hai lần), nghị sĩ Quốc Hội, phó tổng thống và tổng thống VNCH 08 ngày sau khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ông không phải là nhà chánh trị thành công nhưng ông có đầy đủ đức độ của một nhà giáo can trường, có hùng tâm, dũng khí khi phản đối ông Ngô Đình Diệm và từ chức đô trưởng về đứng tên làm hiệu trưởng trường trung học tư thục Minh Đức ở Trảng Bàng do ông Nguyễn Ngọc An làm chủ trước khi bị cầm tù ở Chí Hòa năm 1960. Thời gian sống trong tù ông viết tập thơ Lao Trung Lãnh Vận. Ông cảm ơn đại sứ Hoa Kỳ và chánh phủ Pháp đề nghị giúp ông rời khỏi Sài Gòn trước và sau khi VNCH sụp đổ. Ông cương quyết ở lại Sài Gòn bất chấp mọi hiểm nguy, nghèo đói và nhục nhã do nhà cầm quyền Cọng Sản mang lại cho ông. Ông từ chối lên đài phát thanh ca ngợi tân chế độ. Ông cũng từ chối không nhận quyền công dân khi hàng triệu người dưới quyền ông còn bị giam cầm trong các trại cải tạo và nhà tù Cọng Sản. Ông chết nghèo năm 1982.

Ông Nguyễn Văn Tâm là một nhà giáo năng nổ hoạt động để trở thành một đốc phủ. Ông là người Việt Nam đầu tiên làm tỉnh truởng Tân An vào năm 1946 ở Nam Kỳ. Sau đó ông giữ các bộ An Ninh, Nội Vụ, thủ hiến Bắc Việt rồi thủ tướng. Ông nổi tiếng thân Pháp và được nhắc đến khi tuyên bố: “Je fais la guerre” ngày nhậm chức thủ tướng. 

Ông Võ Nguyên Giáp không phải là nhà giáo yêu nghề. Ông chỉ dùng nghề ấy tạm bợ để sống và hoàn thành giấc mơ quyền hành và danh vọng mà thôi. Lúc ấy ông chỉ dạy các lớp đệ nhất cấp (Premier Cycle) tức là từ 1ère année đến 4ème année và chương trình không có lịch sử Việt Nam mặc dù vào lúc ấy ở Hà Nội có phong trào nghiên cứu lịch sử Việt Nam do sự hiện diện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’extrême Orient) và dư âm của thuyết Đại Đông Á Thịnh Vượng Chung của Nhật nhưng nước ta là một thuộc địa của Pháp. Ông Giáp ái mộ Napoléon I mà ông biết được qua các giờ lịch sử mà ông học ở Albert Sarraut với các giáo sư Pháp. Ước vọng của ông là trở thành một danh tướng. Nó trở thành sự thật khi ông được Phạm Văn Đồng dẫn sang Trung Hoa gặp Ông Gia Trần (Hồ Chí Minh) năm 1940. Ông có dự khóa huấn luyện quân sự sơ cấp ở Trung Hoa do các sĩ quan Trung Hoa Quốc Dân Đảng huấn luyện. Lúc ấy ở Guangxi (Quảng Tây), Guangdong (Quảng Đông), Yunnan (Vân Nam) có nhiều nhà cách mạng Việt Nam thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau hoạt động: Cọng Sản, VNQDD thân Nhật (Phục Quốc) mặc dù lúc bấy giờ Trung Hoa kháng Nhật. Các ông Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Vũ Hồng Khanh, Hồ Học Lãm đều là những tướng lãnh hay sĩ quan cao cấp người Việt Nam có uy tín đối với chánh phủ Quốc Dân Đảng do Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch) lãnh đạo. Hoàng Văn Hoan từng được sự che chở của đại tá Hồ Học Lãm khi hoạt động trên lãnh thổ Trung Hoa. Tuy vậy các đảng viên Cọng Sản Việt Nam phải giấu tông tích kỷ lưỡng vì Chiang Kaishek rất ghét Cọng Sản mặc dù từ năm 1936 ông phải chấp nhận liên minh Quốc- Cọng lần thứ hai sau biến cố Xian (Tây An). Võ Nguyên Giáp là tướng lãnh không học trường võ bị.

Đến năm 1944 ông chỉ huy 34 du kich quân trang bị bằng võ khí thô sơ. Sau các sĩ quan OSS ở Hoa Nam, tiền thân của CIA, có tặng cho ông Hồ Chí Minh một vài khẩu súng ngắn và giúp cho du kích Việt Minh xử dụng võ khí, cách liệng lựu đạn v.v.

Ông Giáp là người Việt Nam dạy lịch sử nhưng ông biết Napoléon mà không biết Quang Trung Nguyễn Huệ. Có thể ông biết nhưng vì vọng ngoại hay a dua theo những lời tán tụng của các sử gia Pháp khi ái mộ Napoléon. Napoléon chỉ đạt chiến thắng trong bộ chiến nhưng luôn luôn thất bại trong thủy chiến trước Hải Quân Anh ở Aboukir (1798) và Trafalgar (1805) do Nelson chỉ huy. Những năm 1813, 1814 (Leipzig, vây hãm Paris) và 1815 (Waterloo) ông bị bại trong những trận đánh bộ chiến làm sụp đổ đế triều của ông. Quang Trung Nguyễn Huệ có những chiến thắng thần tốc và bất bại trong bộ chiến lẫn thủy chiến trong suốt đời cầm quân của mình mặc dù ông không học trường võ bị nào cả! Điểm chung của tướng Giáp và Napoléon là xây dựng chiến công và vinh quang cho cá nhân mình bất chấp sự đau khổ và chết chóc của người khác.

Năm 1799 tướng Napoléon Bonaparte đã bỏ quân sĩ do ông chỉ huy ở lại Ai Cập để về Pháp làm đảo chánh để trở thành đệ nhất tổng tài rồi từ từ lên ngôi hoàng đế (1805). Vị danh vọng ông bỏ người yêu Désirée đề cưới Joséphine rồi ly dị Joséphine đề cưới Marie Louise, công chúa nước Áo. Vị danh vọng và để được tín nhiệm của nhà độc tài Robespierre, Napoléon Bonaparte không ngần ngại dùng đại bác bắn vào những người biểu tình ngoài đường phố Paris. Võ Nguyên Giáp làm công việc tương tự với các đảng viên VNQDD, Đại Việt, Duy Dân, nhóm Thiết Thực năm 1945- 46 và luôn luôn sát quân như dùng củi mụt trên chiến trường. Người ta không thấy con cái của ông hay của các vị lãnh đạo Cọng Sản trong số các chiến binh ngã gục trên chiến trường. Quang Trung Nguyễn Huệ và Napoléon Bonaparte đều xông pha ngoài trận mạc cùng với quân sĩ. Chuyện này vắng bóng nơi Võ Nguyên Giáp và các tướng lãnh Cọng Sản khác nên người ta chỉ thấy chiến binh Cọng Sản chết rất nhiều những suốt hai cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm sau đệ nhị thế chiến không có một tướng lãnh Cọng Sản nào chết ngoài mặt trận cả. Người ta cũng ngờ vực thiên tài quân sự của tướng Võ Nguyên Giáp vì:

·    từ năm 1946 đến 1950 Việt Minh không thắng Pháp trong trận đánh trực diện nào ngoài những trận phục kích lẻ tẻ.

·    Việt Minh mở chiến dịch biên giới năm 1950 sau khi nhận viện trợ, cố vấn chánh trị và quân sự của Trung Hoa Cọng Sản.

·    Năm 1951 tướng Giáp bị tướng De Lattre de Tassigny áp đảo thì các sử liệu Cọng Sản đổ thừa cho các cố vấn Trung Hoa Cọng Sản sai lầm. Nhưng những chiến thắng ở các tỉnh biên giới năm 1950 và chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 thì tự cho là do thiên tài quân sự của tướng Giáp. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng quyết định chấm dứt chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất. Nếu đó là chiến thắng của Việt Minh và tướng Giáp thì tại sao Phạm Văn Đồng, đại diện bên thắng cuộc, không có tiếng nói quyết định mà chì thụ động nhận lịnh từ Hồ Chí Minh chấp nhận một cách thụ động sự phân chia đất nước sau khi Zhou Enlai gặp ông ngoài biên giới. Do đâu ông Zhou Enlai (Châu Ân Lai) đóng vai trò quan trọng tại hội nghị Geneva năm 1954? Có nước nào trên thế giới đỗ xương máu chiến đấu và thắng lợi lại chấp nhận chia đôi nước mình? Mã Lai không võ trang kháng chiến chống Anh vẫn được độc lập và toàn vẹn lãnh thổ năm 1957. Chẳng những vậy diện tích nước Mã Lai độc lập còn có thêm miền bắc Bornéo nghĩa là diện tích Mã Lai thời Anh thuộc nhỏ hơn diện tích của Liên Bang Đại Mã Lai Á sau khi được Anh trao trả độc lập.  

Hồ Chí Minh- Võ Nguyên Giáp- Đảng Cọng Sản Việt Nam

Không thể phủ nhận lòng yêu nước của mọi công dân Việt Nam vào những thập niên 1920 và 1930 khi bí mật tham gia vào các đảng phải cách mạng như Tân Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, đảng Cọng Sản Đông Dương, Đại Việt, Duy Dân v.v. Võ Nguyên Giáp gia nhập đảng Tân Việt Cách Mạng Đảng có lẽ do ảnh hưởng của người thầy cũ là Đào Duy Anh. Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Đặng Thái Mai đều là đảng viên Tân Việt chuyển sang đảng Cọng Sản. Trần Phú là tổng bí thơ đầu tiên của đảng Cọng Sản Đông Dương. Mãi đến năm 1940 Võ Nguyên Giáp mới được gặp Hồ Chí Minh (lúc ấy chưa mang bí danh này) qua trung gian của Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh để ý đến Võ Nguyên Giáp có thể vì các yếu tố sau đây:

a.  sự thông minh của ông

b.  nguồn gốc miền Trung

c.  vợ đầu tiên của ông là Nguyễn Thị Quang Thái là em của Nguyễn Thị Minh Khai, người đã lưu lại cho Hồ Chí Minh nhiều kỷ niệm đẹp và lãng mạn vào đầu thập niên 1930 mặc dù năm 1935 bà kết hôn cùng Lê Hồng Phong, Uỷ Viên Trung Ương Đảng Cọng Sản Quốc Tế.

Bộ ba Hồ Chí Minh- Phạm Văn Đồng- Võ Nguyên Giáp chuẩn bị nắm chánh quyền sau khi Nhật đầu hàng. Lúc bấy giờ Hồ Chí Minh rất xa lạ với Hà Nội. Ông đã sống ở Huế và Sài Gòn. Trái lại Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp quen thuộc với Quốc Học Huế và Albert Sarraut Hà Nội. Riêng Phạm Văn Đồng còn có hoạt động ở Sài Gòn trước khi đảng Cọng Sản Việt Nam chào đời. Các đảng viên Cọng Sản miền Bắc rất đông. Đó là những phu hầm mỏ than đá Hòn Gai, hãng dệt Nam Định, công nhân Hỏa Xa, công nhân nhà máy sản xuất xi măng Hải Phòng, phu bến tàu Hải Phòng, bần nông trên châu thổ sông Hồng và người Thổ, Tày, Nùng...ở các tỉnh biên giới Việt- Hoa. Các đảng viên nầy chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa sâu đậm. Họ đặt dưới sự lãnh đạo của Trường Chinh, Đặng Xuân Khứ và Hoàng Văn Thụ (bị Pháp xử tử năm 1944). Hoàng Văn Thụ và Chu Văn Tấn là những khuôn mặt lớn trong đảng Cọng Sản gốc người Tày và Thổ. Chu Văn Tấn là tổng trưởng bộ Quốc Phòng trong chánh phủ Hồ Chí Minh năm 1945. Miền Bắc có nhiều đảng phái cách mạng phi Cọng Sản như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân. Võ Nguyên Giáp có vai trò lớn trong việc tận diệt các đảng phải phi Cọng Sản và trong việc củng cố địa vị của Hồ Chí Minh trong hàng ngũ Cọng Sản. Lúc bấy giờ Cọng Sản Trung Hoa chưa nắm chánh quyền nên Trường Chinh chưa lộ diện như sau khi đảng Cọng Sản được phục hồi dưới tên đảng Lao Động Việt Nam (1951) do ông làm tổng bí thơ.

Năm 1946 Hồ Chí Minh phải nhờ Võ Nguyên Giáp dùng uy tín cá nhân của ông thầy Sử- Địa Thăng Long để giải thích hiệp ước sơ bộ 06-03 cho dân chúng Hà Nội. Dưới mắt người Pháp Võ Nguyên Giáp là người có nhiều khả năng và có nhiều tham vọng. Trên chiếc phi cơ chở Hồ Chi Minh sang Pháp năm 1946 tướng Salan hỏi ông Hồ có sợ Võ Nguyên Giáp đảo chánh trong lúc ông vắng mặt ở Hà Nội không? Hồ Chí Minh trả lời tự nhiên rằng ông đã tạo ra họ và họ không làm gì được nếu không có Hồ Chí Minh! Câu trả lời tự nhiên của ông Hồ cho thấy tài năng thực sự của ông Giáp khác với những gì mà các tác giả và phóng viên Tây Phương nói về ông. Võ Nguyên Giáp được sự che chở của Hồ Chí Minh. Năm 1956 Hồ Chí Minh dùng ông để chỉ trích và hạ bệ Trường Chinh và dìm nông dân Quỳnh Lưu chống đối chánh sách cải cách ruộng đất của Cọng Sản trong biển máu. Ông được xem như người thân Nga, một tướng lãnh tài ba, một ủy viên học rộng trong Bộ Chánh trị của đảng Lao Động Việt Nam.  

Trường Chinh vẫn có vị trí vững chắc trong Bộ Chánh Trị mặc dù không còn giữ chức tổng bí thơ. Người thay thế Trường Chinh mới xứng đáng là người của đảng Lao Động theo đúng quan điểm của Lénin và Stalin. Trường Chinh xuất thân từ một gia đình khoa bảng, phong kiến và giàu có. Bí danh của ông đượm màu sắc Maoist, đưa vào cuộc Vạn Lý Trường Chinh của Mao Zédong trong thời kỳ 1934- 35.  

Lê Duẩn là công nhân Sở Hỏa Xa. Trình độ học vấn rất khiêm tốn. Theo gương Liên Sô ông là bí thơ thứ nhất chớ không gọi là tổng bí thơ. Khi Hồ Chí Minh nắm chánh quyền ở Hà Nội năm 1945 Lê Duẩn bị quên lãng. Lúc ấy ông mới được tự do từ nhà tù Côn Đảo. Ông ở Nam Bộ suốt thời kỳ kháng Pháp và chỉ ra miền Bắc vào năm 1957 sau khi bị Mật Vụ VNCH phát giác. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều hoạt động ở Nam Bộ trong thời kỳ kháng Pháp. Cả hai hợp tác để tạo một thế đứng vững chắc trong đảng Lao Động. Lê Duẩn là kiến trúc sư của MTDTGP. Trong Bộ Chánh Trị của đảng Lao Động năm 1960 có nhiều ủy viên sinh trưởng ở phiá nam vĩ tuyến 17 trong đó có Nguyễn Chí Thanh, một đối thủ của tướng Võ Nguyên Giáp được xem là người thân Beijing (Bắc Kinh) được sự nâng đỡ của Trường Chinh trước kia. Lê Duẩn tự hào về thành tích chánh trị nhưng khó chịu trước học lực và danh tiếng quốc tế của tướng Võ Nguyên Giáp, người được sự bảo trợ của Hồ chủ tịch.  

Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải) là người kiêu căng và không xem trọng đại tướng Võ Nguyên Giáp. Về nguồn gốc ông vốn họ Phan Đình, cha là tổng đốc dưới thời phong kiến và thuộc địa. Các em của ông là Đinh Đức Thiện (Phan Đình Dinh) và Mai Chí Thọ (Phan Đình Đông) đều là ủy viên trung ương đảng Lao Động. Bản thân ông Lê Đức Thọ gia nhập đảng Cọng Sản Đông Dương trước Võ Nguyên Giáp và từng học trường Pháp. Năm 1973 ông được giải Nobel Hòa Bình với Henry Kissinger. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ khéo léo dùng uy danh còn sót lại của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai. Người trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh ở miền Nam là Nguyễn Chí Thanh. Khi Nguyễn Chí Thanh chết Phạm Hùng được đưa vào chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam. Tướng Võ Nguyên Giáp là phó thủ tướng kiêm bộ Quốc Phòng cho có lệ hơn là có thực quyền. Khi biến cố Mậu Thân mà Cọng Sản Việt Nam gọi là cuộc Tổng Tấn Công và Nỗi Dậy năm 1968 xảy ra ông Võ Nguyên Giáp đi chữa bịnh ở Hung Gia Lợi. Có người cho rằng ông sợ Hoa Kỳ dội bom nguyên tử. Ông không bước chân đến nơi nào ở miền Nam trước ngày 30-04-1975 mà chỉ thấy Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Tướng Giáp không có công lao gì trong Chiến Dịch Hồ Chí Minh.

Đến đầu thập niên 1980 tướng Giáp không còn chức vụ gì trong đảng lẫn chánh phủ sau khi đảm trách chương trình Kế Hoạch Hóa Gia Đình. Ông Phạm Văn Đồng vẫn tiếp tục làm thủ tướng cho đến năm 1986. Năm 1984 Võ Nguyên Giáp không được nhắc đến trong lễ kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau này ông còn bị Đỗ Mười, Lê Đức Anh và cả con của đại tướng Nguyễn Chí Thanh là Nguyễn Chí  Vịnh hài tội.  Ông đành thúc thủ nhận chịu.

Ông Võ Nguyên Giáp không có một lời nuối tiếc khi Hoàng Sa mất vào tay Trung Hoa Cọng Sản năm 1974 và không có một giọt nước mắt thương xót cho người đồng chủng ‘thua cuộc‘ bị người đồng chủng ‘thắng cuộc‘ hành hạ không thương tâm sau năm 1975.  Nếu so sánh Võ Nguyên Giáp với Võ Vãn Kiệt chúng ta ngạc nhiên khi thấy một người có trình độ học vấn kém xa Võ Nguyên Giáp, tên tuổi trong và ngoài nước không vang động hơn Võ Nguyên Giáp nhưng can đảm hơn Võ Nguyên Giáp khí dám nhỏ nước mắt trước người đồng chủng chiến bại bằng câu ‘triệu người vui và triệu người buồn’ vô thưởng vô phạt, cho người lãnh những hội viên Hội Trí Thức Yêu Nước bị bắt về tội vượt biên, dùng Nguyễn Xuân Oánh làm cố vấn, chủ trương cởi mở kinh tế để cho dân chúng có đời sống dể thở hơn...khi làm chủ tịch Thành Phố Hồ Chí Minh.  Trong xã hội Cọng Sản những việc làm như thế, dù nhỏ nhặt, rất nguy hiểm đối với người đảng có quyền chức vì dễ bị đảng kỷ luật, trừng phạt, mất chức và mất cả sự sống.  Nó cho thấy ông Võ Văn Kiệt can đảm,  có suy nghĩ đến người khác và có viễn kiến về tương lai hơn ông Võ Nguyên Giáp.  Một cựu cố vấn Hoa Kỳ ở Việt Nam, ông Ramsey, mà tôi gặp trong trại tỵ nạn Phi Luật Tân năm 1985 đã ví Lê Duẩn với Minh Mạng và Võ Văn Kiệt với Lê Văn Duyệt.  Sự so sánh nầy làm cho tôi giật mình vì có một người Hoa Kỳ thấu triệt lịch sử Việt Nam.   

Ông Võ Nguyên Giáp được nổi danh nhờ chinh chiến 30 năm thời hậu đệ nhị thế chiến dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và đảng Cọng Sản Việt Nam.  Hoa Kỳ là cường quốc kỹ nghệ và kinh tế giàu mạnh nhất thế giới thế mà phải kiệt quệ và mang nợ vì hai cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq.  Vậy mà Việt Nam đã trải qua cảnh chém giết lẫn nhau suốt 30 năm liền chỉ vì muốn được danh ‘anh hùng’, làm tiền đồn chống Tư Bản, nghĩa vụ quốc tế hay tiền đồn chống Cọng Sản. Đó là điều cả dân tộc ta cần suy nghĩ lại một cách nghiêm chỉnh để tự cứu mình thay vì mù quáng tung hô những ‘anh hùng’ gây đổ máu triền miên, phá vỡ đoàn kết dân tộc, tiêu hũy nhân lực, trí lực và tiềm năng đất nước để quê hương mãi mãi không có độc lập thực sự và nhân dân không có có tự do và hạnh phúc.  Đến đây tôi xin dừng bút và dành quyền suy tư và phê phán cho người đọc.

Không một căn nhà nào được xây bằng một viên gạch.

*Phần phụ lục:

Để tham khảo tài liệu và tìm hiểu thêm về sáng kiến của các cán bộ chỉ đạo VC cao cấp áp dụng cho toàn thể nhân dân miền Nam VNCH, nhất là cho quân dân cán chính miền Nam đặc biệt nhắm vào Saigon-Cholon, Gia Định và các vùng ven phụ cận. Mời vào đọc thêm tại link:

http://danlambaovn.blogspot.com/2013/07/ban-cao-trang-toi-ac-cua-ang-csvn-va-ho.html#.UlzXpxCUOpt

Thư-viện bồ-đề online@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc-Lâm Yên-Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc-Lâm Yên-Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site