lịch sử việt nam

Trang Chính

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu-Nhật-Tân:

Blog Cu-Làng-Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tư-Tưởng Phật-Giáo:

Tưởng-Niệm 50 Năm Anh-Hùng Ngô-Đình-Diệm, Anh-Hùng Ngô-Đình-Nhu Vị-Quốc Vong-Thân 1963-2013:

Tưởng-Niệm 50 Năm Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức Tự-Thiêu 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Văn-Hóa Tộc Việt:

Weblinks:

 

 

Trang Trí-Lực

lịch sử phật giáo việt nam, ủy ban truy tố tội ác đảng cộng sản việt nam

NHỮNG KẺ PHẢN BỘI TỔ QUỐC

(TIẾP THEO…)

Orange County, CA.USA.Ngày 11/4/2016

Liên Thành.

(Trích Biến Động Miền Trung của tác giả Liên Thành)

***

Đối tượng Phật giáo Việt Nam Thống Nhất

Tổ Chức Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một tai ương, một thảm họa mà dân chúng miền Nam Việt Nam và hai nền Đệ I VNCH và Đệ II VNCH đã phải thai nghén và sinh ra một quái thai do sự hiếp dâm của tên Hồ Tặc.

“Xuất phát từ bản đề nghị của tên cọng sản Thích Trí Quang gởi lên Hồ Chí Minh vào mùa xuân 1946 qua đường Bưu Điện:

Bản Đề Án Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam và bản Hiến Chương do chính ban tham mưu của Thích Trí Quang và Thích Trí Quang biên soạn.

Mùa hè 1946, Trí Quang cùng với Sư phụ của y là Trí Độ (một đảng viên cọng sản, Trí Độ gia nhập Đảng cọng sản từ năm 1941), cả hai được mời ra Bắc để thành lập Phật Học Viện tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Hòa Thượng Tố Liên cho Trí Quang biết Hồ Chí Minh đã mời Tố Liên đến gặp Hồ Chí Minh để thảo luận và trao đề án thành lập Phật Giáo Viết Nam Thống Nhất của Thích Trí Quang cho ông ta. Nhưng do đang bận thành lập Phật Học Viện, nên chưa ai có thời gian để thực hiện đề án nói trên.”

Trích: “Trí Quang Tự Truyện do Trí Quang biên soạn. Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2011”.

Bổn cũ sao lại, vào năm 1964 tại Sài Gòn Thủ Đô của miền Nam Việt Nam, Trí Quang đã ép Thủ Tướng đương thời của chính phủ miền nam Việt Nam Đại Tướng Nguyễn Khánh ký giấy phép cho phép tổ chức Phật Giáo Việt Nan Ấn Quang của Trí Quang đổi danh xưng là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phép hoạt động từ vỹ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu, có nghĩa trên toàn lãnh thổ VNCH.

Bản Điều lệ và Hiến Chương của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chính là bản Điều lệ và Hiến Chương mà Trí Quang đã đệ trình Hồ Chí Minh vào mùa xuân năm 1946 và đã được Hồ Tặc chấp thuận.

Thử nhìn vào hàng ngũ cấp lãnh đạo của tổ chức Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ta sẽ thấy ngay đây là cánh tay nối dài của ban Tôn Giáo Vận trong tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc của đảng Cọng sản Việt Nam. Đây là một thảm họa cho miền Nam, cho Đệ II VNCH mà hậu quả là ngày Quốc Hận 30/4/1975.

Đây là danh sách, lý lịch, quá trình hoạt động của cấp lãnh đạo trong tổ chức Phật Giáo Việt Nam từ Trung Ương đến Thừa Thiền-Huế theo tài liệu và lời khai của Trung Tá VC Hoàng Kim Loan:


1/ Thích Trí Quang:

Thích Trí Quang tên Phạm Văn Bồng, về sau đổi tên thành Phạm Quang, sinh ngày 21/12/1923 tại làng Diêm Điền, Thị xã Đồng Hới, Tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo. Dân làng với đa số làm nghề nông hoặc làm thuê làm mướn. Người dân Diêm Điền có bản chất bảo thủ, cực đoan, và rất quá khích.

Thích Trí Quang vốn xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và là con thứ hai trong bốn anh em trai. Nhà nghèo đến độ cha mẹ không nuôi nổi các con, nên Phạm Văn Bồng và người anh cả đã phải nương thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em Phạm Văn Bồng được Hòa Thượng Hồng Tuyên ở chùa Phổ Minh thâu nhận làm đệ tử và đưa về chùa. Cũng cần nói thêm Hòa Thượng Hồng Tuyên đã có vợ và sanh được hai con rồi mới xuất gia.

Chùa Phổ Minh nằm tại Đồng Đình thuộc Thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Bốn anh em nhà họ Phạm đã được Hòa Thượng Phổ Minh dùng bốn chữ Minh, Quang, Chánh, Đại để đổi tên thành: Phạm Minh, Phạm Quang, Phạm Chánh, Phạm Đại. Nhờ nương náu cửa Phật tại chùa Phổ Minh nên Phạm Quang và anh cả Phạm Minh có được chút học hành. Song trình độ của cả hai không qua lớp ba bậc tiểu học, chỉ hiểu biết tối thiểu một số chữ Quốc ngữ. Phạm Quang tức Thích Trí Quang học được một chút đỉnh Hán văn do sư phụ Hồng Tuyên truyền dạy cho, còn về Tây học thì hoàn toàn mù tịt. Riêng Phạm Chánh và Phạm Đại đều chịu thất học.

Năm 1945 khi Việt Minh (Cộng sản) nổi lên toàn quốc, Phạm Minh rời bỏ tu hành theo Việt Minh kháng chiến. Phạm Minh phục vụ trong Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Xã tại địa phương. Sau này Phạm Minh là một Ủy Viên của Ủy ban Nhân dân Tỉnh Quảng Bình. Phạm Chánh và Phạm Đại thì đầu quân vào bộ đội. Một thời gian ngắn sau, Phạm Chánh được Bộ Chỉ Huy quân du kích phong làm Tiểu Đội Trưởng Quân Du Kích. Ngày 4/6/1947 Phạm Chánh bị một đơn vị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, một vùng nằm về phía tây của Thị xã Đồng Hới, khi ấy Phạm Chánh mới có 21 tuổi. Phạm Đại, người em út của Trí Quang, làm y tá trong bộ đội Cộng sản tại địa phương. Phạm Đại chết sau 1975.

Theo ký giả Robert Sharplen đã viết trong cuốn The Lost Revolution xuất bản vào năm 1965 do nhà xuất bản Harper and Row ấn hành, có đoạn kể rằng:

“Phạm Minh, người anh của Thích Trí Quang đã đi theo Việt Minh Cộng sản ngay từ buổi đầu 1945. Vào khoảng tháng 5 năm 1964 sau cuộc đảo chánh tại Miền Nam, Phạm Minh đã giả trang làm một tăng sĩ Phật giáo với tên là Thích Diệu Minh lẻn vào chùa Từ Đàm tại Huế thăm người em ruột của nó là Thích Trí Quang”.

Theo Đại Tá Hiển hiện đang sống tại vùng Hoa Thịnh Đốn, USA, nguyên Giám Đốc Cảnh Sát Công An Trung Nguyên Trung Phần thời Đệ I Cộng Hòa trước biến động 1963, và sau đó ông về chỉ huy Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, rồi Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Vùng III cho đến ngày ông bị Việt cộng phục kích đặt mìn làm ông bị mù mắt vĩnh viễn, thì sau ngày 30/4/1975 thân nhân của ông có đến chùa Ấn Quang và đã bắt gặp Phạm Minh tức Thích Diệu Minh mặc thường phục đang ngồi với Thích Trí Quang. Bà cụ đã nói thẳng với Thích Trí Quang: “Tôi thật không ngờ thầy là Việt cộng!” Thích Trí Quang im lặng không trả lời.

Năm 1933, Bác sĩ Lê Đình Thám, Thượng Tọa Thích Mật Thể, và Hoàng Thân Tráng Đinh, anh em chú bác ruột với Hoàng Thân Tráng Cử, đứng ra thành lập trường An Nam Phật Học Huế, nhằm mục đích đào tạo tăng sĩ. Năm 1939 khi được mười sáu tuổi, Phạm Quang được tuyển vào trường này và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc của trường. Thích Trí Độ là đảng viên Cộng sản. Y gia nhập đảng Cộng sản vào năm 1941, thời điểm nầy đảng Cộng sản Việt Nam còn hoạt động trong bóng tối. Năm 1943, Thích Trí Độ đặt pháp hiệu cho Phạm Quang với chữ Trí đứng đầu, từ đó mà có tên Trí Quang. Thích Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật học Trung cấp vào đầu năm 1944.

Cũng trong thời gian này, qua người anh trai Phạm Minh, Trí Quang đọc được tài liệu về Bản tường trình sự cần thiết thành lập Mặt trận Việt minh của Trường Chinh. Tâm đắc với nội dung của nó, Trí Quang nhận thấy rằng theo Việt Minh là lựa chọn tốt nhất.1

Năm 1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền, Thích Trí Độ được đảng Cộng sản cử giữ chức vụ Chủ Tịch Trung Ương Giáo hội Phật giáo Cứu quốc. Thích Trí Độ đã lôi kéo được một số tăng sĩ theo Cộng sản. Y đã bổ nhiệm Thích Thiện Minh giữ chức vụ Chủ Tịch Phật Giáo Cứu Quốc ở tỉnh Quảng Trị, Thích Mật Thể ở Thừa Thiên Huế, và Thích Huyền Quang ở Liên Khu 5 gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, và Phú Yên.

Mùa xuân năm 1946, Trí Quang gởi qua đường bưu điện cho Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bản đề án thống nhất Phật giáo Việt Nam và bản hiến chương do chính Trí Quang soạn thảo. Mùa hè năm 1946, Trí Quang cùng với Trí Độ được mời ra miền bắc Việt Nam để thành lập Phật Học Viện. Tại chùa Quán Sứ, Hòa Thượng Tố Liên cho Trí Quang biết Hồ Chí Minh đã mời Tố Liên đến thảo luận và trao đề án của Trí Quang. Do đang tiến hành thành lập Phật Học Viện nên chưa ai có thời gian để thực hiện đề án nói trên.2

Trí Quang trở lại Diêm Điền để giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy ban Phật giáo Cứu quốc của tỉnh Quảng Bình, sau khi Việt Minh Cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo tuyên bố “Toàn quốc kháng chiến” và ra lệnh cho đồng bào toàn quốc phải tản cư khỏi các Thành phố lớn như Hà Nội, Huế, và Sài Gòn.

Thích Trí Quang Bị Phòng Nhì Pháp Bắt Vì Can Tội Hoạt Động Cho Việt Minh Cộng Sản

Vào ngày 25/6/1947 khi quân đội Pháp tái chiếm Thị xã Đồng Hới, Thích Trí Quang rời làng Diêm Điền đến trú ngụ tại làng Diên Nghĩa. Thời gian nầy Trí Quang hoạt động Cộng sản cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của Việt Minh Cộng sản thuộc Thị xã Đồng Hới là Nguyễn Toại, dân làng thường gọi là Toại Béo, ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Chẳng bao lâu, cả ba gồm Trí Quang, Nguyễn Toại, và Nguyễn Tịch bị Phòng Nhì (II) Pháp hốt trọn ổ và bị giam ở trạm Thiên Văn Tam Tòa. Nguyễn Tịch thoát ngục. Nguyễn Toại bị quân Pháp xử tử hình vì trong suốt thời gian hoạt động y cùng đám Việt Minh Cộng sản đã sát hại nhiều thành phần quốc gia. Riêng Trí Quang bị giam giữ một thời gian và rồi được lực lượng an ninh Pháp trả tự do.

Không lâu sau đó, Trí Quang lại bị Phòng II Pháp bắt giữ vì y tái hoạt động cho Việt Minh Cộng sản. Lần nầy Thích Trí Quang bị giam lâu hơn lần trước. Hội An Nam Phật Học tại Huế đã nhờ đến thân mẫu của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại là Đức Bà Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức Đức Bà Từ Cung, can thiệp và sau đó, một viên chức bảo hộ của chính quyền Pháp đứng ra bảo lãnh cho Trí Quang. Lần nầy Trí Quang đã phải làm giấy cam kết không hoạt động cho Việt Minh Cộng sản nữa. Sau khi được thả ra, nhận thấy Đồng Hới không còn là nơi an toàn cho mọi hoạt động bí mật, Thích Trí Quang quyết định rời Đồng Hới vào Huế.

Thời gian đầu Thích Trí Quang ngụ tại chùa Báo Quốc và thời gian sau y về trú ngụ tại chùa Từ Đàm. Tại chùa Từ Đàm, bề nổi y đóng vai là một người tu đạo chăm chỉ, nhưng bề chìm y vẫn âm thầm hoạt động Cộng sản.

Thích Trí Quang Gia Nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam

Theo hồ sơ văn khố của sở Mật Thám Pháp còn lưu giữ tại trung tâm hồ sơ văn khố thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Thừa Thiên Huế trước 1975 thì Thích Trí Quang là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Buổi lễ kết nạp vào đảng Cộng sản được tổ chức tại chiến khu Lương Miêu Dương Hòa do Tố Hữu, đại diện cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam chủ tọa buổi lễ vào năm 1949. Mật khu Lương Miêu Dương Hòa nằm về hướng tây nam Thành phố Huế, và cách Thành phố Huế khoảng trên sáu mươi cây số đường bộ. Đây là một vùng thung lũng rộng lớn bao bọc bởi những dãy núi đồi trùng điệp thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên. Nơi đây là căn cứ địa của Tỉnh ủy và Tỉnh đội Thừa Thiên Huế của lực lượng Việt Minh.

Việc Tố Hữu, Ủy viên Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam, đứng ra kết nạp Thích Trí Quang vào đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã được chính Tố Hữu xác nhận, nhân khi đề cập đến những nhân vật Quốc gia và Cộng sản của miền nam Việt Nam trước năm 1975, vào mùa hè năm 2000 trong một bữa cơm thân mật do Tố Hữu khoản đãi tại tư thất của y ở Hà Nội, với hai nhân chứng: Ông Nguyễn Văn… hiện đang sống tại Thành phố Huế gần chùa Từ Đàm, và Ông Kasaha… hiện đang sống tại Tokyo Nhật Bản.

Năm 1952, Thích Trí Quang ra Hà Nội tham dự Đại hội Thành lập Giáo hội Tăng già Toàn quốc do Thích Tố Liên làm Tổng Thư Ký.

Thích Trí Quang và Phong Trào Hòa Bình

Vào khoảng tháng 3 năm 1953, Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình hay còn được gọi là Phong Trào Hòa Bình ra đời do Thích Trí Độ là thầy của Thích Trí Quang lãnh đạo. Sự ra đời của phong trào nầy là nhằm hỗ trợ thế mạnh cho chính phủ Việt Minh trong cuộc hòa đàm Genève 1954 giữa Việt Minh và chính phủ Pháp. Khi ấy Thích Trí Quang đang giữ chức vụ Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học đồng thời hoạt động tích cực để cho ra đời Phong Trào Hòa Bình tại Huế, theo lệnh của Cộng sản Bắc Việt và Thích Trí Độ.

Hòa đàm Genève 1954 ký kết chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến 17 làm lằn mức phân chia hai miền Nam, Bắc. Từ nam vĩ tuyến 17 đến tận Cà Mâu thuộc về những người quốc gia miền nam, từ Bắc vĩ tuyến 17 đến ải Nam Quan của người Cộng sản miền bắc. Tại Sài Gòn, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thành lập Phong Trào Hòa Bình để yểm trợ cho sách lược và đường lối chánh trị của Cộng sản Bắc Việt.

Nhân sự nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình tại Huế là những đảng viên Cộng sản của Chi bộ đảng Cộng sản Thuận Hóa do Bác sĩ Lê Khắc Quyến là trưởng Chi bộ. Các đảng viên và đoàn viên trong Chi bộ Thuận Hóa là Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Bác sĩ Thú y Phạm Văn Huyến, ông Nguyễn Văn Đẳng và còn nhiều thành phần trí thức tham gia phong trào nầy nữa.

Tại Sài Gòn, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thành lập Phong Trào Hòa Bình để yểm trợ cho đường lối chánh trị của Cộng sản Bắc Việt.

Vào ngày 29 tháng 8, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và phổ biến tuyên cáo 2 điểm:

- Yêu cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam.

- Phải tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử theo tinh thần hiệp định Genève. Ngày 21/9/1954, Phong Trào Hòa Bình tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi chánh phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc và tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc.

Cơ quan tình báo của chính phủ Quốc gia đã biết rõ ràng đây là một tổ chức của chính phủ Cộng sản Bắc Việt. Trước những đòi hỏi phi lý của phong trào nầy, chính phủ Quốc gia bắt buộc phải vô hiệu hóa tổ chức nầy.

Ngày 7/11/1954, chính phủ VNCH ra lịnh bắt giam tất cả những nhân vật trí thức đã tham gia hoạt động trong phong trào nầy.

Ở Sài Gòn, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Kỹ sư Lưu Văn Lang, Giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn Dưỡng, cùng với một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng bị bắt giữ.

Ở Huế, cơ quan an ninh đã bắt giữ: Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ, Phạm Văn Huyến, và một số khác. Nhưng ở Miền Trung, ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn lại muốn dùng chính sách chiêu dụ các thành phần nầy trở về với chánh nghĩa quốc gia. Ông Ngô Đình Cẩn đã nỗ lực khuyên lơn, đem tiền bạc, địa vị, và lợi lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Ông Ngô Đình Cẩn tin chắc rằng: Với những tài liệu cụ thể của Phòng II Pháp chứng minh rõ ràng Trí Quang đã từng hoạt động cho Cộng sản từ lâu, hiện đang nằm trong tay ông, thì Trí Quang sẽ không thể nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản trắc nữa.

Đến ngày 9/2/1955, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ra lệnh tống xuất 26 nhân vật đầu sỏ của Phong Trào Hòa Bình, trao cho chính phủ Cộng sản Bắc Việt, nhưng trong số đó đã không có Trí Quang, Lê Khắc Quyến, Nguyễn Cao Thăng, và Nguyễn Văn Đẳng. Điều đáng ngạc nhiên là chẳng bao lâu sau Lê Khắc Quyến lại được trọng đãi. Lê Khắc Quyến được bổ nhiệm làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ông Ngô Đình Cẩn và được bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại học Y Khoa thuộc Viện Đại học Huế, Giám Đốc Bệnh viện Trung ương Huế. Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân công ty bào chế thuốc tây OPV. Nguyễn Văn Đẳng từ ngạch Thừa Phái được chuyển ngạch sang Tham Sự Hành Chánh và được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, kiêm Thị Trưởng Huế từ 1955-1963.

Điều này cho thấy Hà Nội đã chỉ thị cho những tên này trá hàng nằm lại Miền Nam.

Riêng Trí Quang được ông Ngô Đình Cẩn bỏ tiền ra giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”. Đến đời vua Thiệu Trị (1841- 1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ “Ấn Tôn Tự” bị coi như phạm húy).

Bởi thế trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào Huế thỉnh thoảng thấy ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn đến chùa Từ Đàm ăn cơm chay với Thích Trí Quang. Ngoài ra ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn còn tích cực yểm trợ cho các hoạt động Phật giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm.

Có lẽ Ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn tin rằng: Với sự tử tế giúp đỡ tiền bạc và hỗ trợ tinh thần của ông đối với Thích Trí Quang, ông ta đã xoay được hướng đi của Thích Trí Quang về với chính nghĩa quốc gia. Thế nhưng trò chơi chính trị và tình báo nầy của ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn hoàn toàn không có hiệu quả nào đối với một tay Cộng sản sắt máu như Thích Trí Quang.

Ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn đã “nuôi ong tay áo”. Tên lưu manh Cộng sản Thích Trí Quang thi hành lệnh của Cộng sản Hà Nội dùng lực lượng Phật giáo Ấn Quang tại Miền Trung tham gia cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 giựt sập nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa, sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Sau đó chính y ra lệnh cho Tướng Nguyễn Khánh, khi ấy là Quốc Trưởng, ký một sắc lệnh đặc biệt mở phiên tòa đặc biệt để xử bắn ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn.

2/ Thích Đôn Hậu Đệ III Tăng Thống:

Cơ sở tôn giáo vân của Hoàng Kim Loan. Thoát ly ra Hà Nội vào tháng 2/1968 Mậu Thân.

Xin hãy nghe chính Đôn Hậu tự nói:

Thích Đôn Hậu đã mở đầu bức thư như sau:

Tại sao tôi gia nhập Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam

Kính gửi tất cả đồng bào miền Nam Việt Nam,

Đồng bào thân mến, 

Nghe tin tôi gia nhập LMLLDTDCHBVN, tín đồ Phật giáo và những người ngoại giáo chắc là sẽ tự hỏi tại sao một người già lão như tôi, tu hành đã bao nhiêu năm, mà thay vì hiến thân trọn vẹn cho đạo giáo lại đi làm chính trị?

Phần tiếp theo, Thích Đôn Hậu tự trả lời bằng cách lên giọng vu khống hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã áp dụng một chính sách đàn áp Phật giáo ngày càng khốc liệt (?!).

Phần cuối cùng, Thích Đôn Hậu tuyên bố Thích Đôn Hậu “cương quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN” và “tha thiết kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước, đặc biệt là các Phật tử và những dân cư thành thị miền nam Việt Nam xiết chặt hàng ngũ trong LMLLDTDCHBVN, tăng cường sức mạnh, đứng lên để chiến thắng tụi xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, chiếm lại độc lập, tự do và hòa bình đích thực” (?!).

etudes Vietnamiennes, Huê passé et présent, nguyễn khắc viện, thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Etudes Vietnamiennes của Nguyễn Khắc Viện xuất bản năm 1973 

etudes Vietnamiennes, Huê passé et présent, lê văn hảo, thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

etudes Vietnamiennes, Huê passé et présent, lê văn hảo, thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Bức thư của Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch LMLLDTDCHBVN, 20-5-1968

Dữ kiện thứ hai là trích dẫn nguyên văn phát biểu tại phiên họp Quốc hội kỳ 2 (1976) của ông Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu. Thích Đôn Hậu đã khoe công với Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng CSVN, trong dịp Thích Đôn Hậu tham dự phiên họp Quốc hội kỳ 2 (1976) này:

Sau khi tôi ra miền Bắc năm 1968, thì vị mà tôi tiếp xúc đầu tiên là Hồ Chủ tịch."

Khi gặp Hồ Chủ tịch, thì câu nói mà có lẽ là câu nói chính của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch 'tán dương Phật giáo. Tán dương việc tranh đấu, phản đối các chánh quyền tay sai do Mỹ tạo nên ở miền nam Việt Nam.' Rồi Hồ Chủ tịch tán dương cuộc tranh đấu của Phật giáo là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức. 'Tôi rất là cảm kích về phong trào tranh đấu đó là một sự hi sinh của PG. Thay mặt Chánh Phủ Liên Tôn tôi thành thật cảm ơn và đặc biệt tôi rất hoan nghênh những việc tranh đấu đó.' Đại ý như vậy. Khi đó có Thủ Tướng.

Thì vài ngày sau, trong buổi chiêu đãi của Mặt Trận Tổ Quốc do cụ Tôn Đức Thắng chủ trì, buổi chiêu đãi của phủ Thủ Tướng do Thủ Tướng chủ trì, buổi chiêu đãi của Trung Ương Đảng do cụ Lê Duẩn chủ trì thì các vị đều tán dương Phật giáo, đại khái như Hồ Chủ tịch đã nói.”1

Dữ kiện thứ ba là trích dẫn nguyên văn phát biểu tại chùa Linh Mụ ngày 08 tháng 12 năm 1978 của ông Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu2:

Chắc quý vị đã biết một cách rõ ràng là Phật giáo chúng tôi luôn luôn gắn liền với dân tộc. Phật giáo với dân tộc gắn liền với nhau như môi với răng. Mà Phật giáo và dân tộc vì gắn liền với nhau cho nên khi ra Bắc, tôi được các vị cho biết: những thời qua, các vị cách mạng tiền bối, kể cả Hồ Chủ tịch và hiện tại các vị như là Thủ tướng Phạm Văn Đồng .v.v... thì đã ở chùa, ở chùa để mà tiếp tục làm cách mạng. Thì trong khi đó nếu Phật giáo không phải là yêu nước thì trong khi mà các Ngài ở chùa đó, nếu các nhà sư mà xấu, thì chắc là các Ngài cũng không còn đến ngày nay để lãnh đạo. Và từ đó về sau, trãi qua những cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, các vị cũng đã biết rằng nhà chùa, nhất là nhà chùa là những nơi giúp đỡ, chở che cho cán bộ, bộ đội đến như thế nào! Và ngay cả Tết Mậu Thân, dù cán bộ, bộ đội về nhiều như thế, về thành phố Huế nhiều như vậy, thì về ở đâu, không phải là ở nhà đạo khác mà chỉ là ở nhà Phật tử, mà nếu như Phật tử mà họ xấu, họ không có tinh thần yêu nước, thì khó mà thực hiện được cuộc cách mạng vùng lên trong Tết Mậu Thân.

Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng. Vì gắn liền với cách mạng cho nên khi nghe đến giải phóng chỗ nào thì người Phật giáo hoan nghênh lắm. Mà nhất là khi nghe giải phóng đến Sài Gòn, thì họ phấn khởi vô cùng, hoan nghênh hết sức.

Từ đó thì cán bộ, bộ đội về khắp tất cả, từ nông thôn cho đến nơi thành thị, mà ở đâu có bóng của các vị, của anh em cán bộ, bộ đội, thì đồng bào, mà trong đó đa số là Phật tử, thấy các anh thì họ hết sức là hoan nghênh, vui vẻ ra đón chào. Người thì bắt tay, người thì vuốt vai, người thì cầm áo, người thì là ngó mà rất hoan nghênh, cứ ngó mãi mãi, cười mãi. Họ thấy các anh em, họ nhìn các anh em như là anh em, con cháu chú bác gì của họ mà đi xa, đi làm nhiệm vụ thành công mà về. Từ đó có cái gì họ cũng đem ra mời ăn, thành ra đoàn kết, mà còn là thương yêu nữa. Chẳng những thương yêu mà còn là kính nể nữa, kính trọng nữa. Bởi vì họ thấy anh em là những người có công với cách mạng, có công trong cuộc kháng chiến, là những người nếm mật nằm gai đem lại độc lập, hòa bình cho quê hương….”

Ba dữ kiện nêu trên, đều do chính đương sự Thích Đôn Hậu, một đảng viên Cộng sản cấp trung ương và là Đệ III Tăng Thống của GHPGVNTN, viết và tự thuật lại hoạt động cộng sản của Thích Đôn Hậu và GHPGVNTN đã góp công lớn trong việc lật đổ VNCH và vốn từng được Hồ Chí Minh trực tiếp 'cảm ơn' và 'hoan nghênh' vào năm 1968 khi Thích Đôn Hậu ra Bắc với “bác và đảng”.

Trở lại câu nói của ông Thích Đôn Hậu:Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng.” Như vậy, ai là người nói rằng Phật giáo gắn liền với cộng sản?

Tôi phỉ báng Phật giáo hay ông Thích Đôn Hậu phỉ báng Phật giáo?

Xin một lời công đạo cho lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế và cho tôi Liên Thành Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế

Thích Đôn Hậu không thể chối cãi với các mật báo viên của ty Cảnh Sát Quốc Gia /TT-Huế là đương sự không gặp gỡ Hoàng Kim Loan như cơm bữa tại chùa Linh Mụ.

Và cuối cùng, Ôn Linh Mụ khó có thể đối chất với Trung Úy Đoàn Lang, Trung Úy Phan Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, và với Trưởng Ty CSQG Liên Thành mà tất cả hiện đang ngụ tại Hoa Kỳ, nếu như Ôn còn sống.

Trả lại sự thật cho lịch sử là bổn phận của tất cả mọi công dân đã vì duyên nghiệp mà biết được những oan khiên sai trái của những âm mưu chính trị đen tối. Tôi, Liên Thành, vì chức vụ, bổn phận, và trách nhiệm mà biết được những điều đó, thì tôi không có quyền im lặng, vì trách nhiệm đối với đất nước và lịch sử là bổn phận tối thượng. Đó là trách nhiệm thiêng liêng trên hết mọi lãnh vực kể cả lãnh vực tôn giáo. Không ai có thể nhân danh lãnh đạo tôn giáo, nhân danh tôn giáo để che đậy sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam này.

Tôn giáo là tôn giáo. Phật giáo là Phật giáo. Lãnh đạo Phật giáo là lãnh đạo Phật giáo. Họ là những người đi rao giảng lời Phật. Họ không là Phật. Họ cũng chẳng là Phật giáo.

Điều này quá rõ và quá đơn giản, nhưng vẫn còn có một số người cố bám víu trộn lẫn các phạm trù này lại, cho rằng quý vị đó là Phật giáo, để đánh lận dư luận, mưu đồ lợi dụng sức mạnh tôn giáo để thực hiện những mưu toan chính trị không ngay thẳng.

Cuối cùng, với trách nhiệm là một Phật tử, tôi phải đặt đức công bằng lên trên tất cả những tai tiếng của các lãnh đạo tôn giáo của đạo mình, mà ngay chính cá nhân tôi, trong chỗ riêng tư, phần nào cũng muốn giấu bớt, vì xấu hổ.

CÒN TIẾP…

Thích Huyền Quang.Thích Quảng Độ, Thích Minh Châu, Thích Hộ Giác, Thích Nhất Hạnh…

1 Thích Trí Quang. Trí Quang Tự Truyện. 2011. NXB Tổng Hợp tại Sài Gòn.

2 Thích Trí Quang. Trí Quang Tự Truyện. 2011. NXB Tổng Hợp tại Sài Gòn.

3 Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976. http://youtu.be/2xO--Ucc9nA

4 Phát biểu tại chùa Linh Mụ 08-12-1978 (phút 1:19:40). http://youtu.be/2xO--Ucc9nA

***

Tên Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam, tên sát nhân Thích Đôn Hậu và đám thổ phỉ Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải chịu trách nhiệm về tội ác chiến tranh và diệt chủng tại Huế Mậu Thân 1968

Orange County, CA.USA. Ngày 21/12/2015 Liên Thành (Trích Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968. Trang 422-450)

thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Thích Đôn Hậu và đồ tể Tôn Thất Dương Tiềm
Thích Đôn Hậu, theo sau là đồng bọn, đại đồ tể Tôn Thất Dương Tiềm, sát thủ Mậu Thân, anh rể đại sát thủ Nguyễn Thị Đoan Trinh và con rể sát thủ Nguyễn Đóa
(Thích Đôn Hậu và Tôn Thất Dương Tiềm được Cộng sản Hà Nội cho xuất ngoại để làm công tác quốc tế vận tại Mông Cổ vào năm 1971)

thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Thích Đôn Hậu (Chủ tịch Ủy ban Hòa bình, Thống nhất, Dân chủ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam) (phải) cùng với Lê Duẩn (Tổng Bí Thư Cộng sản) (ngoài cùng bên trái) và Võ Nguyên Giáp (Tổng Tư Lệnh Quân đội Cộng sản) vào tháng 4/1976 tại chùa Thiên Mụ (tức Linh Mụ) Huế

thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Thích Đôn Hậu (trái), Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, và Tuần Chi trong Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam

Cách đây gần ba năm, vào cuối thu năm 2007, khi đặt bút viết những dòng chữ đầu tiên về các Biến Động Miền Trung từ 1966-1975, tôi đã tiên liệu rằng, rồi ra sẽ là một “biến động lớn” tại hải ngoại và quốc nội. Bởi vì, những gì tôi viết ra tuy là những sự việc đã thực sự xảy ra, những đầu mối để dẫn đến một thời điểm đen tối nhất của lịch sử Việt Nam, nhưng trong đó, có những việc liên quan đến một số nhân vật lãnh tụ Phật giáo đã dùng chiếc áo tu hành, cố đem thần quyền khống chế thế quyền. Thế quyền ở đây chính là 2 chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Các lãnh tụ Phật giáo, điển hình là Thích Đôn Hậu, đã hùa theo cộng sản, cải trang trong cái vỏ bọc tôn giáo, quyết tâm triệt hạ chính quyền Miền Nam, nhằm phục vụ tích cực cho đảng Cộng sản trong mưu đồ thôn tính toàn cõi đất nước Việt Nam. Vì tôi đưa ra những sự việc đụng chạm đến các lãnh tụ Phật giáo này, một số khác, điển hình là Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái, đã chống đối vì họ muốn ém nhẹm sự việc.

Nếu tôi dựng chuyện vu khống một ai đó cho dù là thường dân hay các bậc tu sĩ, thì lương tâm và danh dự tôi là một bản án trừng phạt nặng nhất cho chính tôi, chứ không cần đợi cho ai chứng minh là tôi sai hay vu khống cả. Vì thế, không một thế lực nào trên đời này có thể cản trở tôi nói ra sự thật. Tôi đã từng xông vào chùa Trà Am, bắt sư Thích Như Ý, em Hòa Thượng Thích Trí Thủ, sau đó đến chỗ nghĩa địa cất giấu, lôi ra 6 ký lô chất nổ hợp chất C3 và 8 ngòi nổ chậm, trước sự chưởi rủa của ông Thích Như Ý rằng tôi là mật vụ Mỹ Thiệu, con dòng cháu giống đi làm du đảng đàn áp quý thầy. Thâm ý của ông ta muốn làm nao núng áp đảo tinh thần tôi. Nhưng ông Như Ý đã lầm, khi tôi đã cân nhắc hơn thiệt đúng sai, đúng là cộng sản, tôi đi đến cùng, triệt hạ thẳng tay, bất kể đó là chùa hay nhà thờ.

Núp bóng thế lực chùa hay nhà thờ để tạo sức mạnh hoạt động cộng sản gây rối chính trị và trị an xã hội hoàn toàn không có giá trị gì với tôi cả. Bằng cớ về Thích Như Ý: sau 1975, Thích Như Ý hiện nguyên hình là tên Việt Cộng nằm vùng đặc trách Tôn Giáo Vận. Sự việc này không ai có thể chối cãi. Các anh em CSQG cùng với tôi đến lục soát chùa Trà Am hiện nay còn sống tại Hoa Kỳ. Dân chúng trong vùng gần chùa Trà Am chứng kiến việc tôi bắt Thích Như Ý còn đó. Những nhân vật mà tôi đề cập trong Biến Động Miền Trung đó là: Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Như Ý, Chánh Trực v.v. những người đã được Phật giáo đồ miền trung đặc biệt là Thừa Thiên-Huế kính trọng tôn sùng xem như là các bậc thánh linh trong đời sống, nay bỗng chốc bị lột trần ra là đảng viên cộng sản, là cán bộ Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo, lợi dụng tôn giáo để phỉnh gạt tín đồ để thi hành các công tác mà cơ quan tình báo Chiến Lược Cộng Sản Bắc Việt giao phó.

thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Sau ngày 30-4-1975, các “thầy” đã hiện nguyên hình...
Bao xương máu QLVNCH đã đổ ra để bảo vệ các “thầy”…?

Vì lẽ đó, “Biến Động Miền Trung” là một sự thật làm bàng hoàng, đau đớn và gây xúc động cho nhiều người, đặc biệt là những người quốc gia chân chính không chấp nhận thần quyền lấn át thế quyền. Ngược lại, “Biến Động Miền Trung” cũng đã tạo một cơn chấn động bởi một số người hiện nay còn sót lại trong GHPGVNTN và tay sai không những không chịu chấp nhận sự thật, lại còn ráng bóp méo, cho rằng Biến Động Miền Trung ra đời là để bôi nhọ đánh phá Phật giáo, gây chia rẽ tôn giáo chia rẽ cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Tôi sợ những dư luận rẻ tiền này không? Thưa không!

Quá trắng trợn, họ đã đưa ra những lời lẽ dối trá và vô căn cứ rằng ông Thích Đôn Hậu, thuộc hàng lãnh đạo Phật giáo có tên tuổi, đã bị bọn Việt cộng bắt đưa ra Bắc trong Tết Mậu Thân 1968. Đây là cuộc ra đi vì bị bắt buộc bởi một tiểu đội quân cộng sản Bắc Việt dí súng AK vào người ông ta, và rằng ông ta không bao giờ thỏa hiệp với chính quyền Cộng Sản Miền Bắc về cuộc ra đi này cả. Những lối nói khơi khơi không có sự kiện để chứng minh như thế chẳng bao giờ có chút giá trị nào đối với hệ thống luật pháp của bất cứ quốc gia nào, kể cả tụi cộng sản.

Hôm nay, tôi xin trình bày một số dữ kiện quan trọng để chứng minh rằng việc Thích Đôn Hậu tham gia vào Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam (LMLLDTCDHBVN) và ra Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) vào năm 1968 là hoàn toàn do Thích Đôn Hậu tự nguyện.

Dữ kiện thứ nhất là bức thư của Thích Đôn Hậu với tựa đề “Tại sao tôi gia nhập Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam” gởi cho “đồng bào miền Nam” vào ngày 20 tháng 5 năm 1968. Trong bức thư này, Thích Đôn Hậu nói rõ quyết tâm giật sập các chính phủ VNCH. Đồng thời Thích Đôn Hậu kêu gọi Phật tử miền Nam Việt nam đứng lên để “chiến thắng tụi xâm lược Mỹ”. Cuối cùng, đương sự thừa nhận bản thân đương sự đã cương quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN (1).

Bức thư này nằm trong cuốn hồi ký của Lê Văn Hảo, viết bằng Pháp ngữ, trích một số tài liệu liên quan đến Đôn Hậu trong Tập san Huế Passé et Présent số 37 trang 235-237 do Etudes Vietnamiennes của Nguyễn Khắc Viện xuất bản năm 1973.

Thích Đôn Hậu đã mở đầu bức thư như sau:

Tại sao tôi gia nhập Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam

Kính gửi tất cả đồng bào miền Nam Việt Nam,

Đồng bào thân mến, 

Nghe tin tôi gia nhập LMLLDTDCHBVN, tín đồ Phật giáo và những người ngoại giáo chắc là sẽ tự hỏi tại sao một người già lão như tôi, tu hành đã bao nhiêu năm, mà thay vì hiến thân trọn vẹn cho đạo giáo lại đi làm chính trị?

Phần tiếp theo, Thích Đôn Hậu tự trả lời bằng cách lên giọng vu khống hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã áp dụng một chính sách đàn áp Phật giáo ngày càng khốc liệt (?!).

Phần cuối cùng, Thích Đôn Hậu tuyên bố Thích Đôn Hậu “cương quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN” và “tha thiết kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước, đặc biệt là các Phật tử và những dân cư thành thị miền nam Việt Nam xiết chặt hàng ngũ trong LMLLDTDCHBVN, tăng cường sức mạnh, đứng lên để chiến thắng tụi xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, chiếm lại độc lập, tự do và hòa bình đích thực” (?!).

etudes Vietnamiennes, Huê passé et présent, nguyễn khắc viện, thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Etudes Vietnamiennes của Nguyễn Khắc Viện xuất bản năm 1973

etudes Vietnamiennes, Huê passé et présent, lê văn hảo, thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

etudes Vietnamiennes, Huê passé et présent, lê văn hảo, thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Bức thư của Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch LMLLDTDCHBVN, 20-5-1968

Dữ kiện thứ hai là trích dẫn nguyên văn phát biểu tại phiên họp Quốc hội kỳ 2 (1976) của ông Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu. Thích Đôn Hậu đã khoe công với Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng CSVN, trong dịp Thích Đôn Hậu tham dự phiên họp Quốc hội kỳ 2 (1976) này:

“Sau khi tôi ra miền Bắc năm 1968, thì vị mà tôi tiếp xúc đầu tiên là Hồ Chủ tịch."

“Khi gặp Hồ Chủ tịch, thì câu nói mà có lẽ là câu nói chính của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch 'tán dương Phật giáo. Tán dương việc tranh đấu, phản đối các chánh quyền tay sai do Mỹ tạo nên ở miền nam Việt Nam.' Rồi Hồ Chủ tịch tán dương cuộc tranh đấu của Phật giáo là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức. 'Tôi rất là cảm kích về phong trào tranh đấu đó là một sự hi sinh của PG. Thay mặt Chánh Phủ Liên Tôn tôi thành thật cảm ơn và đặc biệt tôi rất hoan nghênh những việc tranh đấu đó.' Đại ý như vậy. Khi đó có Thủ Tướng.
Thì vài ngày sau, trong buổi chiêu đãi của Mặt Trận Tổ Quốc do cụ Tôn Đức Thắng chủ trì, buổi chiêu đãi của phủ Thủ Tướng do Thủ Tướng chủ trì, buổi chiêu đãi của Trung Ương Đảng do cụ Lê Duẩn chủ trì thì các vị đều tán dương Phật giáo, đại khái như Hồ Chủ tịch đã nói.”

Dữ kiện thứ ba là trích dẫn nguyên văn phát biểu tại chùa Linh Mụ ngày 08 tháng 12 năm 1978 của ông Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu (2):

Chắc quý vị đã biết một cách rõ ràng là Phật giáo chúng tôi luôn luôn gắn liền với dân tộc. Phật giáo với dân tộc gắn liền với nhau như môi với răng. Mà Phật giáo và dân tộc vì gắn liền với nhau cho nên khi ra Bắc, tôi được các vị cho biết: những thời qua, các vị cách mạng tiền bối, kể cả Hồ Chủ tịch và hiện tại các vị như là Thủ tướng Phạm Văn Đồng .v.v... thì đã ở chùa, ở chùa để mà tiếp tục làm cách mạng. Thì trong khi đó nếu Phật giáo không phải là yêu nước thì trong khi mà các Ngài ở chùa đó, nếu các nhà sư mà xấu, thì chắc là các Ngài cũng không còn đến ngày nay để lãnh đạo. Và từ đó về sau, trãi qua những cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, các vị cũng đã biết rằng nhà chùa, nhất là nhà chùa là những nơi giúp đỡ, chở che cho cán bộ, bộ đội đến như thế nào! Và ngay cả Tết Mậu Thân, dù cán bộ, bộ đội về nhiều như thế, về thành phố Huế nhiều như vậy, thì về ở đâu, không phải là ở nhà đạo khác mà chỉ là ở nhà Phật tử, mà nếu như Phật tử mà họ xấu, họ không có tinh thần yêu nước, thì khó mà thực hiện được cuộc cách mạng vùng lên trong Tết Mậu Thân.

Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng. Vì gắn liền với cách mạng cho nên khi nghe đến giải phóng chỗ nào thì người Phật giáo hoan nghênh lắm. Mà nhất là khi nghe giải phóng đến Sài Gòn, thì họ phấn khởi vô cùng, hoan nghênh hết sức.

Từ đó thì cán bộ, bộ đội về khắp tất cả, từ nông thôn cho đến nơi thành thị, mà ở đâu có bóng của các vị, của anh em cán bộ, bộ đội, thì đồng bào, mà trong đó đa số là Phật tử, thấy các anh thì họ hết sức là hoan nghênh, vui vẻ ra đón chào. Người thì bắt tay, người thì vuốt vai, người thì cầm áo, người thì là ngó mà rất hoan nghênh, cứ ngó mãi mãi, cười mãi. Họ thấy các anh em, họ nhìn các anh em như là anh em, con cháu chú bác gì của họ mà đi xa, đi làm nhiệm vụ thành công mà về. Từ đó có cái gì họ cũng đem ra mời ăn, thành ra đoàn kết, mà còn là thương yêu nữa. Chẳng những thương yêu mà còn là kính nể nữa, kính trọng nữa. Bởi vì họ thấy anh em là những người có công với cách mạng, có công trong cuộc kháng chiến, là những người nếm mật nằm gai đem lại độc lập, hòa bình cho quê hương….”

Ba dữ kiện nêu trên, đều do chính đương sự Thích Đôn Hậu, một đảng viên Cộng sản cấp trung ương và là Đệ III Tăng Thống của GHPGVNTN, viết và tự thuật lại hoạt động cộng sản của Thích Đôn Hậu và GHPGVNTN đã góp công lớn trong việc lật đổ VNCH và vốn từng được Hồ Chí Minh trực tiếp 'cảm ơn' và 'hoan nghênh' vào năm 1968 khi Thích Đôn Hậu ra Bắc với “bác và đảng”.

Trở lại câu nói của ông Thích Đôn Hậu: “Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng.” Như vậy, ai là người nói rằng Phật giáo gắn liền với cộng sản?

Tôi phỉ báng Phật giáo hay ông Thích Đôn Hậu phỉ báng Phật giáo?

Xin một lời công đạo cho lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế.

Tôi xin nhắc lại câu nói thường tình cửa miệng: Không ai chịu cha ăn cướp!

Thích Đôn Hậu không thể chối cãi với các mật báo viên của ty Cảnh Sát Quốc Gia /TT-Huế là đương sự không gặp gỡ Hoàng Kim Loan như cơm bữa tại chùa Linh Mụ.

Và cuối cùng, Ôn Linh Mụ khó có thể đối chất với Trung Úy Đoàn Lang, Trung Úy Phan Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, và với Trưởng Ty CSQG Liên Thành mà tất cả hiện đang ngụ tại Hoa Kỳ, nếu như Ôn còn sống.

Trả lại sự thật cho lịch sử là bổn phận của tất cả mọi công dân đã vì duyên nghiệp mà biết được những oan khiên sai trái của những âm mưu chính trị đen tối. Tôi, Liên Thành, vì chức vụ, bổn phận, và trách nhiệm mà biết được những điều đó, thì tôi không có quyền im lặng, vì trách nhiệm đối với đất nước và lịch sử là bổn phận tối thượng. Đó là trách nhiệm thiêng liêng trên hết mọi lãnh vực kể cả lãnh vực tôn giáo. Không ai có thể nhân danh lãnh đạo tôn giáo, nhân danh tôn giáo để che đậy sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam này.

Tôn giáo là tôn giáo. Phật giáo là Phật giáo. Lãnh đạo Phật giáo là lãnh đạo Phật giáo. Họ là những người đi rao giảng lời Phật. Họ không là Phật. Họ cũng chẳng là Phật giáo.

Điều này quá rõ và quá đơn giản, nhưng vẫn còn có một số người cố bám víu trộn lẫn các phạm trù này lại, cho rằng quý vị đó là Phật giáo, để đánh lận dư luận, mưu đồ lợi dụng sức mạnh tôn giáo để thực hiện những mưu toan chính trị không ngay thẳng.

Cuối cùng, với trách nhiệm là một Phật tử, tôi phải đặt đức công bằng lên trên tất cả những tai tiếng của các lãnh đạo tôn giáo của đạo mình, mà ngay chính cá nhân tôi, trong chỗ riêng tư, phần nào cũng muốn giấu bớt, vì xấu hổ.

Còn nhớ trong ngày mồng hai, mồng ba Tết Mậu Thân 1968, tại Quận I và Quận II Thị xã Huế, chính đích thân Nguyễn Đắc Xuân và toán An Ninh Bảo Vệ Khu Phố của y đã đi từng nhà một kêu gọi “dân chúng treo cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình của Ôn lên!” (Ôn Đôn Hậu), nhà nào không có thì lấy cờ Phật giáo treo lên!”. Câu nói này của Nguyễn Đắc Xuân không thể chối.

Nhưng uổng công cho Nguyễn Đắc Xuân, dân chúng chẳng ai hương ứng cả. Cờ của dân chúng Huế là cờ vàng 3 sọc đỏ. Còn “Cờ của Ôn” là của riêng Ôn và đồng bọn, không phải là cờ vàng 3 sọc đỏ, mà cờ của Ôn thực chất là cờ đỏ sao vàng được ngụy trang thêm 2 mảnh màu xanh ở trên và dưới cái cờ của Cộng Sản Việt Nam, tên của cái tội ác này là cờ Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.

thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Lá cờ này của ông Thích Đôn Hậu đã được treo trên Kỳ Đài Phú Văn Lâu trong 23 ngày. Hơn 170 chiến sĩ TQLC ra đi, chỉ còn lại 67 người để dẹp bỏ lá cờ máu này, dành lại Kỳ Đài cho lá cờ vàng tổ quốc thân yêu

Nguyễn Đắc Xuân cũng đã xác nhận trong nhiều bài viết từ sau năm 1975 khi y từ Miền Bắc trở về rằng ông Đôn Hậu hoạt động cộng sản đồng hội đồng thuyền với y. Hắn cũng đã xác nhận có lá cờ này qua chuyện “mọi người treo cờ của Ôn lên, hay lấy cờ Phật giáo treo lên!” trong cuốn hồi ký của chính hắn.

Trong những ngày binh lửa tại Huế và rồi một thời gian sau đó đồng bào Phật tử rất lo âu không hiểu “Ôn” Đôn Hậu ở đâu? Ôn Đôn Hậu ở đâu? Phật giáo đồ Huế đang tìm kiếm hỏi thăm tin tức, nhưng chẳng ai biết “Ôn ở mô?”, thì bỗng nhiên, thật ngơ ngác bàng hoàng khi nghe lời kêu gọi của “Ôn” trên đài phát thanh Hà Nội gởi Phật giáo đồ và đồng bào Huế nội dung là: Hãy đoàn kết đứng dậy chống lại chính phủ Miền Nam, chống lại Ngụy quyền, Ngụy quân và Đế quốc Mỹ.

Ôn theo Việt Cộng, để lại Huế thành phố Huế tan hoang!... Ôn ơi là Ôn!

Chính là ôn chớ không ai khác! Giọng nói chính là của ôn Linh Mụ chớ không ai khác!

thích đôn hậu, tôn thất dưong điềm, đảng cộng sản việt nam

Huế điêu tàn đổ nát và đầy dẫy xác người dưới lá cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình

Kế hoạch “Tổng Nổi Dậy” bị thất bại, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam cho lệnh thi hành “Biện Pháp Bạo Lực Cách Mạng” hay “Biện Pháp Đỏ” để răn đe dân chúng Huế. Kết quả của “Biện Pháp Đỏ” dưới danh nghĩa Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình là 5327 thường dân vô tội bị thảm sát bằng cách cột thành chùm đập đầu chôn sống, và 1200 người bị dẫn đi mất tích.

Sau 26 ngày chiếm Huế, lực lượng quân sự lẫn chính trị của Việt Cộng thảm bại, rút lui trước sự phản công ồ ạt của Quân Lực VNCH và Đồng Minh, nhưng bọn cộng sản Việt Nam và lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, con đẻ của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, con nuôi của các ông Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo, đã để lại cho Thành phố Huế cho đồng bào một nghĩa trang lớn với những tang tóc đau thương oan nghiệt ngút tận trời xanh.

Huế sau Mậu Thân là một giải khăn tang trắng từ thành phố lên đến Ba Đồn, nơi mồ chôn tập thể của 5327 thường dân vô tội bị sát hại bởi bản chất sát máu và lòng hận thù của những người cộng sản, và của những tên nằm vùng người Huế trong lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình như: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phan Duy Nhân.

Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thị Đoan Trinh, cha con thuốc bắc Thiên Tường và còn cả hằng trăm, hàng ngàn những cơ sở nội thành Việt Cộng khác, mà đại đa số chúng là lực lượng nòng cốt của cộng sản trong vụ tranh đấu năm 1966 của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, thoát ly lên mật khu khi cuộc tranh đấu thất bại, nay theo chân cộng quân trở lại Huế, trút mối hận xưa lên đầu người dân vô tội.

hue massacre mau than 1968, thảm sát ở cố đô huế

Lễ Cải Táng Nạn Nhân Bị Việt Cộng Thảm Sát

hue massacre mau than 1968, thảm sát ở cố đô huế

Các thành viên của ông Thích Đôn Hậu trong LMDTCDHB đã trói cập cánh, rồi giết như giết rắn độc như thế này...

Đến tháng 5 năm 1972 khi chúng tôi bắt được tên Trung Tá VC Hoàng Kim Loan thì các giả thuyết “Ôn Đôn Hậu bị Việt Cộng bắt đi ra Bắc”, hay “Ôn tình nguyện ra đi”, đã được xác quyết.

Lời khai của Hoàng Kim Loan về chuyện này đã được thẩm tra đi thẩm tra lại rất kỹ lưỡng. Trưởng Trung Tâm Thẩm Vấn, Trung Úy Hồ Lang, phó Trung Tâm Thẩm Vấn, Trung Úy Nguyễn Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, phó đặc biệt, và tôi thay phiên nhau phối hợp điều tra. Sau đó, vì sự việc quá quan trọng và quá lớn liên quan đến các nhân vật trọng yếu trong chính phủ VNCH, tôi yêu cầu phía tình báo Hoa Kỳ CIA giúp kiểm chứng thêm bằng máy đo sự thật. Hồ sơ dày cộm này bao gồm khẩu cung lẫn kết quả của máy đo sự thật được chuyển y về trung ương Sài Gòn, đích thân Thiếu Tá Trương Công Ân bay vào Sài Gòn trình Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình Tư lệnh CSQG, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, kiêm Tổng Thư Ký Hội Đồng An Ninh Tình Báo Quốc Gia toàn bộ hồ sơ nội vụ. Thiếu Tá Trương Công Ân hiện đang sống tại Bolsa, California.

Các nhân chứng nêu trên đã đích thân lấy khẩu cung Hoàng Kim Loan bằng những kỹ thuật thẩm vấn điêu luyện nhà nghề, cũng như phối kiểm các bằng chứng, các sự kiện liên quan mà chúng tôi theo dõi đã lâu trong vụ án nằm vùng quá lớn này, tất cả các anh em đó hiện đang sống tại Hoa Kỳ, tiểu bang Kansas và California, nếu ai muốn đối chất, tôi sẽ cung cấp số phone của họ, để 3 mặt một lời để công khai minh bạch hóa một sự thật đã bị cố tình che dấu.

Một số người vì muốn chống đối cuốn sách Biến Động Miền Trung nên nói một cách vu vơ vô căn cứ rằng nhân vật Hoàng Kim Loan là nhân vật không có thật. Xin hỏi các vị đó là ai? Các vị đó có phải là những viên chức cao cấp trong ngành tình báo của VNCH có liên quan đến vụ án của chiến dịch Bình Minh để có thẩm quyền phủ nhận về lý lịch và nhân vật Hoàng Kim Loan? Và cũng xin hai vị liên lạc với tôi để phối kiểm với nhiều nhân viên tình báo VNCH có thẩm quyền khác đã từng thẩm vấn Hoàng Kim Loan, thuộc vùng I, ngoài tôi ra. Bởi vì, vụ Hoàng Kim Loan là một vụ án nằm vùng lớn nhất tại Huế, có thể nói vụ án nằm vùng lớn nhất và nguy hiểm nhất tại Miền Nam, nên ngoài BCH/CSQG/TT-HUẾ và tôi ra, còn có nhiều giới chức thẩm quyền khác, không thuộc ty CSQG TT/Huế thẩm vấn y, chẳng hạn Trung Tá Hồ Anh Triết lúc đó là Phó Đặc Biệt Vùng I, sau này làm trưởng ty CSQG tỉnh Quảng Ngãi. Ông đã từng thẩm vấn Hoàng Kim Loan nhiều ngày trước khi chuyển y về trung ương Sài Gòn. Trung Tá Hồ Anh Triết hiện cư ngụ tại Houston, Texas.

Tiểu sử Hoàng Kim Loan:

Hoàng Kim Loan sinh 1920 tại xã Phong An, Quận Phong Điền Tỉnh Thừa Thiên. Tham gia phong trào Việt Minh tại xã Phong An, Phong Điền Thừa Thiên.
Tháng 10 năm 1944: được kết nạp vào đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 6/1945: được đảng phân công vào thành phố Huế, hoạt động trong phong trào học sinh Huế. Đã cùng với Tố Hữu tham gia tổ chức cuộc biểu tình trước cửa Ngọ Môn yêu cầu Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị.
1946, Cán bộ cao cấp thuộc Tổng Cục Quân Báo. Trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Địa bàn họat động thành phố Huế. Trách nhiệm: xây dựng cơ sở bí mật.
1954, Đình chiến 1954, với chức vụ thành ủy viên Thành Ủy Huế. Trưởng cơ quan Điệp Báo thành phố Huế, phụ trách Trí Vận và Tôn Giáo Vận. Đương sự được chỉ thị bí mật ở lại Huế để hoạt động.
1959, được phong quân hàm Trung Tá.
1963-1966 hoạt động chặt chẽ với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiên Siêu, Chánh Trực trong công tác phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh lật đổ Đệ I Cộng Hòa, và vụ phản loạn năm 1966, với chiêu thức Bàn Thờ Phật Xuống Đường tại Huế.
Mậu Thân 1968, phụ trách tổng khởi nghĩa tại Huế. Phụ trách thành lập Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình, đồng thời cũng phụ trách tổ chức chính quyền cách mạng tại Huế.
1969 giữ chức Thường Vụ Thành Ủy Huế.
1969 giữ chức vụ trưởng cơ quan Điệp Báo Quân Khu Trị Thiên Huế.
Tháng 5/1972 bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế bắt sống tại Vỹ Dạ, Thừa Thiên-Huế.

Theo Hoàng Kim Loan khai thì ông Thích Đôn Hậu là cơ sở tôn giáo vận của y từ trước 1963. Trong vụ lật đổ Đệ I Cộng Hòa và vụ phản loạn vào tháng 6/1966 của ông Trí Quang tại miền trung đặc biệt là tại Huế, thì y được lệnh của Tổng Cục Tình Báo chỉ thị phối hợp làm việc chặt chẽ với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Chánh Trực thực hiện hai công tác này.

Ngoài ra, để kiểm chứng lời báo cáo của mật báo viên của ty CSQG TT/Huế cài tại chùa Linh Mụ, chúng tôi có thẩm tra Hoàng Kim Loan về quan hệ tình ái giữa ông Đôn Hậu và bà Tuần Chi, Hoàng Kim Loan xác nhận là có. Và chúng tôi cũng điều tra ngược lại, hỏi Hoàng Kim Loan rằng phải chăng đây là chiêu “mỹ nhân kế” có tính toán mà các anh sử dụng để điều khiển và khống chế đối tượng? Hoàng Kim Loan cũng không ngần ngại chấp nhận đó là một trong những chiến thuật của cộng sản.

Theo lời khai của Hoàng Kim Loan thì việc thoát ly của ông Đôn Hậu ra Bắc không là một chuyện tình cờ hay ép buộc gì cả. Hoàng Kim Loan đã trình bày rất kỹ lý do sự cần thiết của ông Đôn Hậu cho sách lược tuyên truyền quốc tế của cộng sản, theo đó, ông Đôn Hậu thật sự là một vũ khí chính trị lợi hại của Đảng. Ý thức được tầm quan trọng của mình đối với sách lược chống Mỹ Thiệu của Đảng nên ông Đôn Hậu đã đồng ý ra Bắc cùng với một số cơ sở trí vận tôn giáo vận tại Huế. Cùng đi, dĩ nhiên có bà Tuần Chi. Với số nhân sự thập loại thành phần gốc Miền Nam chính phủ Cộng Sản Hà Nội đã thành lập một cái lẩu thập cẩm có tên “phái đoàn đại diện cho dân chúng Miền Nam” xuất ngoại tuyên truyền với thế giới rằng cho cuộc chiến của “nhân dân Miền Nam” là cuộc chiến mà Nhân Dân Miền Nam tự động nổi dậy chống bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy đàn áp tôn giáo, đàn áp trí thức đối lập, đàn áp sinh viên học sinh, đàn áp dân chúng. Rằng chính quyền Miền Nam là một chính quyền phi nghĩa, kiểu Diệm mà không Diệm!

Hành động như vậy, toàn bộ nhóm nằm vùng Miền Nam gốc Huế thi hành nhiệm vụ quốc tế này kể cả ông Đôn Hậu, đã bất chấp đức công bằng, chà đạp lên sự kiện là cả hai chính quyền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đều do đa số dân bầu ra, ngoại trừ một thiểu số chống đối như họ, dĩ nhiên, bởi vì chính họ là cộng sản nằm vùng! Bất cứ ai là người quốc gia mà bọn này chẳng chống trừ phi đó là bọn cộng sản giả dạng nằm vùng như chúng thì chúng ủng hộ thôi. Tuy nhiên cho dù là các người này nguyền rủa chính quyền Miền Nam, nhưng họ phải chấp nhận rằng 2 chính quyền VNCH là chính quyền hợp pháp được đa số dân chúng tín nhiệm và giao phó trách nhiệm điều hành quốc gia. Dân chúng Miền Nam không giao quyền điều hành quốc gia cho ông Đôn Hậu, Trí Quang. Họ đã phản loạn đi rêu rao với quốc tế là chính quyền Miền Nam là chính quyền phi nghĩa, như vậy là họ đã chà đạp lên những lá phiếu của đa số dân chúng tín nhiệm bầu chọn chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Như vậy, chiếu theo luật pháp các nước dân chủ, những kẻ gọi là phong trào Phật giáo Tranh Đấu mà thực chất là cộng sản lãnh đạo giật dây từ xa bao gồm cả các ông Đôn Hậu, Trí Quang đã chà đạp lên kết quả 2 cuộc bầu cử, vi phạm luật pháp quốc gia, phản loạn theo địch.

Những thành phần đại diện trí thức, tôn giáo phản loạn được tuyển chọn rời Huế ra Bắc gồm có:

1- Lê Văn Hảo
Giáo sư nhân Chủng Học thuộc viện Đại Học Huế.
Chủ Tịch lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế (chính quyền do VC thành lập trong thời gian Tết Mậu Thân tại Huế).

2- Ông Đôn Hậu
Chánh Đại Diện Phật giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh (Miền Trung), phó Chủ Tịch Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Lực lượng này là thế lực chính trị chính yếu của bọn cộng sản sử dụng trong Tết Mậu Thân 1968.

3- Bà Đào thị Xuân Yến (bà Tuần Chi)
Nguyên hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế, phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế.

4- Tôn Thất Dương Tiềm - Giáo sư trung học

5- Nguyễn Thúc Tuân giáo sư

6- Nguyễn Đóa, giám thị trường trung học, cha ruột của nữ đồ tể Nguyễn Thị Đoan Trinh

Có thể tóm tắt thân thế và sự nghiệp của ông Thích Đôn Hậu như sau:

Ông tên thật là Diệp Trương Thuần.
Sinh ngày 16-2-1905 tức ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ.
Sinh quán tại làng Xuân An, tổng An Điền, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Thân phụ: Diệp Văn Kỷ, là một lương y. Thân mẫu: Bà Nguyễn Thị Cựu.
Xuất gia ngày 19 tháng 6 năm 1923 tức là năm Quý Hợi tại Chùa Tây Thiên, Huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên. Lúc ấy ông 18 tuổi, sư phụ là ngài Tâm Tịnh.
- Năm 1945 nhận chức trụ trì chùa Linh Mụ.
- Năm 1963 đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào tranh đấu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
- Năm 1964, Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, ông Đôn Hậu được cử làm Chánh Đại Diện Miền Vạn Hạnh.
- Mậu Thân 1968, theo đề cử của Thành Ủy Viên Thành ủy Việt Cộng Hoàng Kim Loan, ông Đôn Hậu được cử vào Chức Vụ Phó Chủ Tịch Lực Luợng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình tại Huế.
- Tháng 1/1968 tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thoát ly lên mật khu và sau đó ra Hà Nội.
- Tại Hà Nội Ông Đôn Hậu được đề cử phó trưởng đoàn đại diện cho thành phần trí thức, tôn giáo, “quần chúng Miền Nam yêu nước” xuất ngoại tuyên truyền cho cuộc chiến xâm lăng của Hà Nội tại Miền Nam Việt Nam, tuyên truyền rằng chính phủ VNCH là một chính phủ đàn áp Phật giáo đàn áp đối lập đàn áp nhân dân.
- Tháng 6 năm 1968 Ủy viên Hội Đồng Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam của Việt Cộng.
- 1970 Ủy Viên thường trực Ban Chấp Hành Hội Phật giáo Á Châu vì Hòa Bình, một tổ chức của cộng sản.
- 1976 Đắc cử Đại biểu Quốc Hội Khóa VI nước cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
- Cũng trong năm 1976 giữ chức vụ Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Mộng của ông Đôn Hậu, phải chăng là mộng sau khi thôn tính miền Nam xong, bọn chúng sẽ để cho ông làm Đệ Nhất Tăng Thống toàn cõi từ nam ra bắc, và để cho ông lập Giáo Hội theo cách riêng của ông. Nhưng ông đã lầm, mọi sự đều phải có sự chỉ đạo của Đảng, người của Đảng phải lãnh đạo giáo hội, đó cũng là chân lý và nguyên tắc hoạt động của cộng sản. Như thế, sự cống hiến cho Cách Mạng của ông Đôn Hậu kể như trắng tay vì thế chính ông đã hiểu sự cay đắng của kẻ bị lường gạt và nói theo danh từ nhà Phật, “Ôn đã ngộ”. Nhưng đã muộn, hậu quả việc làm của ông cũng như của những kẻ hoạt động cộng sản đã đem đến thảm họa quá lớn cho đất nước. Do đó, ông có thể nhận được sự tha thứ của một số người rộng lòng kính yêu quý thầy, cho dù quý thầy có làm cộng sản thì cũng không sao vẫn cứ tôn thờ quý thầy. Nhưng ông khó mà nhận được sự tha thứ của lịch sử và của đa số dân chúng Việt Nam. Ông Đôn Hậu đã hoạt động cộng sản có nghĩa là ông Đôn Hậu đã góp tay tạo nên cái bất hạnh của dân tộc này. Ông không thể dùng chuyện chính quyền VNCH đàn áp Phật giáo để rước cộng sản vào Miền Nam, để đạt mục đích chúng sẽ cho ông và Giáo Hội riêng của ông có nhiều quyền hành hơn, ông đã xem giáo hội của ông trên cả quyền lợi và vận mệnh dân tộc. Là một Phật tử, tôi biết rằng Phật không bao giờ muốn được vinh danh bằng cách phải đòi hỏi quyền hành giáo hội thế tục. Ông tự lập một nhóm Việt Cộng Nằm Vùng từ trước 1963 để chống lại chính phủ VNCH và đã bị gậy ông đập lưng ông. Có câu thân lừa ưa nặng là vậy.

Những hành động hợp tác với Cộng Sản của ông Đôn Hậu trước năm 1975 đều đóng góp vào việc làm tan tành nền Cộng Hòa đưa đến thảm họa cộng sản cho đất nước dân tộc và nguy cơ mất nước sau ngày 30/4/1975.

Ông Đôn Hậu phải chịu trách nhiệm những gì mình đã làm. Giá như ông biết cộng sản là tội ác, là thảm họa cho nhân loại từ cuối thập niên 1950 như hầu hết những người dân bình thường Miền Nam không tu hành gì cả đều biết, thì đỡ khổ cho đất nước biết bao! Chiếc áo tu hành của ông đã làm cho biết bao nhiêu tín đồ nghe ông mà đi theo cộng sản. Bao nhiêu người nghe theo ông và Trí Quang phá hoại chính quyền VNCH? Bao nhiêu người, chúng tôi không có con số, nhưng chắc chắn là không ít, và quyền lực vô hình của tôn giáo được nhóm người đó sử dụng đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và liên tục uy hiếp nền Đệ Nhị Cộng Hòa.

Lãnh thổ mất, Hải Đảo mất, biển mất, nhân quyền mất và cuối cùng là đất nước sẽ bị mất vào tay Tàu Cộng, lỗi tại ai chúng ta đã biết. Nhưng số người lãnh đạo tôn giáo thấy được lỗi lầm của những kẻ mượn chiếc áo cà sa để hoạt động cộng sản, làm điêu đứng tiền đồ dân tộc, quả là quá ít và chắc chắn không có ông Đôn Hậu trong đó.

Khi tấn công và chiếm Huế, cộng sản đã sử dụng 10,000 ngàn quân phục vụ dưới ngọn cờ duy nhất đó là cờ của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ được treo tại Kỳ Đài Ngọ Môn trong suốt 26 ngày tàn sát sinh linh vô tội, tức là cờ của ông Thích Đôn Hậu và ông Lê Văn Hảo.

Và nữa, đại đa số những tay sát nhân tàn bạo giết hại đồng bào Huế như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Nguyễn thị Đoan Trinh, và nhiều nhiều nữa, tất cả bọn họ đều là tay chân quan trọng của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình của ông Lê Văn Hảo và ông Thích Đôn Hậu! Nhóm tội ác này đã giết quá nhiều dân Huế, vậy theo lẽ công bình, là Chủ Soái và Phó Chủ Soái của đám sát nhân nầy, hai ông Lê Văn Hảo và Thích Đôn Hậu về cả ba phương diện, pháp lý, đạo đức, và lương tâm, có chịu một phần trách nhiệm về cái chết của 5327 thường dân vô tội bị thảm sát, và 1200 người bị mất tích hay không? Hay chỉ đơn giản đổ thừa hết cho cộng sản và cho sự thiếu sót trách nhiệm của chính quyền VNCH?

Nếu như những ai đó trả lời “không” thì tôi nghĩ tôi và công luận chẳng còn gì để hỏi những kẻ đó nữa.
Còn nếu trả lời là: “có”, vậy thì câu hỏi đặt ra là nên làm gì để trả lại Công Bằng và Công Lý cho nạn nhân vô tội đã bị người của ông Lê Văn Hảo và Thích Đôn Hậu trong lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình sát hại?

Tóm lại, thứ nhất, cũng là bằng chứng quan trọng nhất, qua theo dõi Hoàng Kim Loan, chúng tôi đã cài người vào chùa Linh Mụ và biết chính xác ông Thích Đôn Hậu cùng hoạt động chung với tên sĩ quan tình báo nguy hiểm này, và lần ra các đầu mối hoạt động của 2 đương sự Hoàng Kim Loan và Thích Đôn Hậu. Các nhân chứng của việc điều tra này hiện đang sống tại Hoa Kỳ.

Thứ hai, không lâu sau ngày 30/4 năm 1975, ông Thích Đôn Hậu đã tự nhìn nhận là có hoạt động cộng sản trong bài viết “Ba Lần Được Gặp Bác Hồ” của chính ông đăng trong “tác phẩm” “Bác Hồ Trong Lòng Dân Huế”, đó là một chứng minh. Rồi việc ông làm Đại Biểu Quốc Hội Cộng Sản cũng là một chứng minh. Việc đám tang ông được các nhân vật chóp bu của Đảng Cộng Sản đến tham dự và gởi vòng hoa viếng là một chứng minh nữa. Hơn cả là chính Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu đã xác nhận ông ta là cộng sản, hoạt động đắc lực cho cộng sản, qua bức thư và những lời tự thuật trích từ cuốn băng ghi âm như trên đã trình bày.

Thứ ba, các nhân vật Miền Nam hoạt động cộng sản như Đào Thị Xuân Yến, Đỗ Trung Hiếu, và đồ tể Nguyễn Đắc Xuân, qua nhiều bài viết, đã xác nhận ông Thích Đôn Hậu là cộng sản cùng hoạt động với họ.

Kết luận như đinh đóng cột của BCH CSQG/TT-HUẾ và cá nhân tôi từ trước 1975 cho đến bây giờ vẫn là: ông Đôn Hậu là cộng sản. Chuyện đơn giản như 2 cộng 2 là bốn.

Ông Thích Đôn Hậu hoạt động cho Cộng Sản trong nhiệm vụ mà Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản giao phó, qua tên Trung Tá điệp viên Cộng Sản Hoàng Kim Loan, nhiệm vụ được giao cho là Tôn Giáo Vận. Thực chất của Tôn Giáo Vận là gì? Đó là: Lợi dụng màu áo tu hành, lợi dụng chức vụ, lợi dụng lòng tôn kính của Phật tử để hoạt động theo chỉ thị của đảng cộng sản mà thôi.

Và vì thế, sự ra đi của ông Đôn Hậu trong Mậu Thân 1968 không là ép buộc, và ông Đôn Hâu đồng ý đi ra Bắc để lãnh nhận nhiệm vụ quan trọng hơn: là xuất ngoại với tư cách là đại diện cho quần chúng Miền Nam tuyên truyền chính nghĩa cho cuộc xâm lăng của Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và từ đó xin viện trợ, chiến tranh phí cho Cộng Sản Hà nội, đồng thời tạo lý do cho bọn nhà báo phản chiến thiên cộng phương tây tấn công lên án chính quyền VNCH là chính quyền phi nghĩa, là chính quyền đàn áp tôn giáo. Còn ai có thể có uy tín hơn, ép phê hơn là một nhà sư có tiếng của Miền Nam tố cáo chính phủ Miền Nam đàn áp tôn giáo? Dư luận lên cao có lợi cho cộng sản đến độ đưa đến việc bọn chính trị gia phản chiến được bầu vào quốc hội Hoa Kỳ mùa thu năm 1974, bọn này cắt viện trợ cho Miền Nam và Cambodge, khai tử Miền Nam.

Do đó, Cảnh Sát Quốc Gia chúng tôi kết luận ông Đôn Hậu đã hoạt động cộng sản trong một thời gian dài trước 1975 và sau 1975 một thời gian ngắn nữa.

Chúng tôi kết luận điều này dựa trên những quy định của ngành điều tra, đó là dựa trên các sự kiện cụ thể, chứng cớ nội phạm và ngoại phạm, nhân chứng, rồi đối chiếu từng sự kiện như cách thức điều tra của tất cả các bộ phận cảnh sát của tất cả các nước dân chủ trên thế giới mà VNCH là một thành viên. Bằng tất cả các bằng chứng và nhân chứng như vậy, lời “tâm sự” không làm cộng sản, bị cộng sản bắt của ông Đôn Hậu cũng như các đồn đãi này kia cho rằng đương sự bị cộng sản bắt đem đi được xem như hoàn toàn không có giá trị.

Và dưới đây là nhận xét ông Nguyễn Lý Tưởng, Dân Biểu Hạ Viện VNCH đơn vị Thừa Thiên, về Thích Đôn Hậu, nguyên văn:

“….. Từ Tòa Đại Biểu Chính Phủ trở ra, tôi được ông Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa cho mượn xe để đi thăm và chúc Tết Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh, ở tại chùa Thiên Mụ Huế. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ này vào trước Tết Mậu Thân là vì trong chuyến bay từ Sàigòn ra Huế trước Tết, tôi cùng đi với anh Nguyễn Văn Kim và anh Kim ngồi bên cạnh TT Thích Đôn Hậu trên máy bay. Anh Kim cho tôi biết có TT Thích Đôn Hậu nên tôi đã đổi chỗ cho anh Kim để ngồi nói chuyện với TT từ Sai gòn ra Huế gần 3 giờ đồng hồ. Sau đó TT mời tôi đến thăm chùa vào dịp tất niên.
Tôi là người thích nghiên cứu về văn hóa, lịch sử nên những cơ hội may được tiếp xúc với các vị cao danh như TT là điều tôi rất lấy làm vinh hạnh. Trong dịp đến thăm TT tại chùa Thiên Mụ, tôi rất ngạc nhiên về những điều TT nói ra. Tôi cảm thấy TT đã từng gặp gỡ Việt Cộng tại chùa hay ở đâu đó. Vì TT rất ca tụng tư cách của "bộ đội Việt Cộng", trong khi đó TT lên án quân đội Mỹ rất nghiêm khắc.

­ Thượng Tọa nói với tôi nguyên văn như sau. "Quân Mỹ và quân đội Việt Nam đi đến đâu thì phá đến đó, còn bộ đội Giải Phóng Miền Nam đi đến đâu thì không làm rẽ rụng một ngọn lá khoai!"

Điều đó có đúng hay không thì chỉ sau đó mấy ngày thôi, nhân dân TP Huế cũng đã thấy rõ…”

(Bài viết trên được trích nguyên văn từ bài viết của cựu Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng.)
---

1. Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch LMLLDTDCHBVN (20/05/1968) in Huế: Passé et Présent: Etudes vietnamiennes No 37, 1973, p.235-237: “Pourquoi j’ai adhéré à l’Alliance des Forces nationales démocratiques et de Paix du Viêt Nam”.

2. Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976. http://youtu.be/2xO--Ucc9nA

3. Phát biểu tại chùa Linh Mụ 08-12-1978 (phút 1:19:40). http://youtu.be/2xO--Ucc9nA

Trí-Lực | Hòa-Thượng Đôn-Hậu Tự-Thuật

 

Loading the player...
 

 

Trí-Lực @ Trúc-Lâm Yên-T 

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters
un compteur pour votre site