lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế Về Việt-Nam và Trung Quốc:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Trí-Lực:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Cây có cội, nước có nguồn. Toàn dân Việt-Nam ngàn đời ghi nhớ ân đức Quốc Tổ Hùng Vương

Tin Tức Thời Sự Việt Nam Quốc Tế 

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

nơi hội tụ của những tâm hồn trăn-trở về nhân-sinh quan và vũ-trụ quan

đồng thời xiển-dương Chánh Tín_bài trừ Mê-Tín Dị Đoan 

 

Câu Chuyện Tố Cáo

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18

Thư Tố Cáo 1

...

*
Ngày 5/8/2008, tức là hơn ba tháng rưỡi kể từ khi bức thư tố cáo được gửi đi lần đầu và sau khi tôi đã bán nhà ở Hà Nội rồi chuyển vào Đông Hà vừa dịch sách kiếm sống vừa chữa bệnh cho vợ, Công an Quảng Trị mới mời tôi lên để “trao đổi.” (Trước đấy, họ đã cho người dò la, tìm hiểu xem tôi có “bị” gì hay không; thậm chí họ còn cho hai tay sỹ quan công an trẻ giả danh công an thực tập cùng với viên cảnh sát khu vực vào nhà tôi để hỏi chuyện.) Họ nói họ sẽ không điều tra vụ này, rằng những gì tôi viết là bịa đặt, rằng những nhân vật liên can trong câu chuyện đều là các vị lãnh đạo nhà nước, không thể “bậy bạ” như thế được. Tuy nhiên, trong Biên bản làm việc tôi vẫn bày tỏ thái độ dứt khoát: “Tôi gửi bức thư này nhằm mục đích thứ nhất là tố cáo một sự thật, thứ hai là để bảo vệ chính mình. Điều tra hay không là việc của chính quyền. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung tố cáo.” Tôi cũng đã trực tiếp ký vào từng trang của bức thư tố cáo mà họ in ra từ file MS Word mà tôi gửi theo đường Internet. Rõ ràng, vụ này tuy phức tạp, liên quan đến những người đứng đầu chế độ, nhưng không thể nói là không điều tra được, vì có nhiều manh mối trong câu chuyện và nhiều nhân chứng còn sờ sờ ra đó. Dĩ nhiên, không phải nhân chứng nào cũng dám nói ra sự thật ngay, bởi họ bị những đối tượng liên can khống chế, đe doạ hay mua chuộc. Hơn thế, nhiều người còn có lợi ích sát sườn trong chế độ chính trị này.
Từ khi bức thư được gửi đi, sóng ngầm đã bắt đầu nổi lên ở Hà Nội. Các thế lực chính trị đang đấu đá và ngấm ngầm tìm cách hạ bệ nhau . Tình báo nước ngoài cũng đã đánh hơi thấy và đổ về Việt Nam (vì tôi có gửi cho một số đại sứ quán và tổ chức nước ngoài ở Việt Nam). Bộ trưởng Công an Trung Quốc Mạnh Kiến Trụ vừa rồi (12/2008) tới Việt Nam cũng không ngoài mục đích là nhằm ổn định nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam, bởi họ thừa biết sự sụp đổ của chế độ Cộng sản ở Việt Nam tất sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị ở Trung Quốc. Vì Trung Quốc tuy là kẻ thù truyền kiếp, người láng giềng muôn thuở lật lọng của Việt Nam song Đảng CS Trung Quốc và Đảng CS Việt Nam lại là “hai đảng anh em,” “môi hở răng lạnh.” Hy vọng với một nền dân chủ đích thực, tham vọng bành trướng của giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ bị kiềm chế và người Trung Quốc sẽ thật sự “hảo hảo,” thể hiện đúng phong thái “quân tử Tàu” của một bậc nước lớn.
Trên chính trường hiện đang có hai phe phái chủ yếu. Một là phe bảo thủ, phản động, tìm mọi cách duy trì chế độ thối nát này hòng bòn rút xương máu của nhân dân, bán rẻ quyền lợi của Tổ quốc, làm tay sai cho Trung Quốc. Để khỏi làm mếch lòng các quan thầy ở Bắc Kinh, họ sẵn sàng ra tay đàn áp những người đồng bào yêu nước xuống đường biểu tình phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa. Phe này do ông Nông Đức Mạnh cầm đầu. Sau lưng ông Mạnh còn có “bố già của bố già” Đỗ Mười, một nhà bolshevik chân chính. Những người chống lại phe trên phần lớn đều thuộc phái cấp tiến, cùng “ở trong chăn” nên hiểu rõ sự thối nát, bỉ ổi và vô nhân của chế độ chính trị này đồng thời lo lắng cho tương lai của đất nước. Trong số đó, không ít người hiểu rằng chỉ có một sự thay đổi triệt để mới khả dĩ xoay chuyển được tình hình, mọi sự vá víu hay cải cách nửa vời đều không thoát khỏi vòng luẩn quẩn và chỉ khiến tình hình đất nước ngày càng thêm bất ổn, thậm chí đối mặt với nguy cơ đổ vỡ, và khi ấy cái giá phải trả sẽ vô cùng đắt. Trước đây, ông Dũng cũng mang tư tưởng cấp tiến nhưng hiện ông đang bị ông Mạnh và ông Hải khống chế. Ông Dũng thực ra cũng chỉ là nạn nhân của ông Hải mà thôi, người ở địa vị cao mà đức độ như ông bây giờ quả là hiếm. Nếu ông Dũng lên tiếng, dũng cảm đối mặt với sự thật, quá trình chuyển tiếp sẽ diễn ra êm thấm. Ông sẽ lập công chuộc tội và giữ được uy tín. Nhược bằng không, ông sẽ mất hết; hơn thế, ông còn đắc tội với nhân dân, với lịch sử. Tôi mong mọi người sẽ lượng thứ cho ông để ông có cơ hội tiếp tục cống hiến cho nước nhà. Tôi cũng hy vọng mọi người sẽ “đại xá” cho ông Mạnh và ông Hải để họ tự nguyện rút lui, mở đường cho công cuộc chuyển mình của đất nước và mong họ qua đó đoái công chuộc tội, đừng tiếp tục lấy tội ác để sửa chữa sai lầm. Họ cần phải hiểu rằng đây chính là cơ hội cuối cùng của mình.
Trong lúc này, tôi kêu gọi tất cả mọi người, kể cả các phe phái chính trị trong Đảng, hãy đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Chế độ chính trị này đã gây ra quá nhiều tội ác. Nó đã quá thối nát và ruỗng mục từ trên xuống dưới. Thượng bất chính hạ tắc loạn, sự sụp đổ của nó là kết cục tất yếu. Một cái quái thai thì không thể nào lớn thành người được! Nhân dân Việt Nam đã phải chịu bao cảnh đau thương mất mát, vì vậy muôn người như một hãy cùng chung sức chung lòng. Kẻ nào phản bội lại quyền lợi của Tổ quốc, tiếp tục chà đạp lên nhân phẩm và các quyền con người cơ bản của nhân dân, hoặc thừa cơ “đục nước thả câu” thì sau này sẽ bị pháp luật trừng trị đích đáng. Quân đội Nhân dân do nhân dân nuôi dưỡng phải phụng sự nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, không thể có cái gọi là “trung với Đảng,” trở thành công cụ bạo lực của một nhóm người để họ mặc sức cướp bóc, hà hiếp nhân dân. Công an Nhân dân lớn lên nhờ bầu sữa của dân trước hết phải bảo vệ nhân dân, bảo vệ an ninh Tổ quốc, không thể trở thành “thanh kiếm của Đảng” để họ đàn áp, bóp hầu bóp cổ cổ nhân dân. Ai có công sẽ được trọng thưởng, được lịch sử và nhân dân đời đời ghi nhớ, cho dù trước đấy đã lỡ tay nhúng chàm (dẫu sao, đi với đám ma cà rồng mà không toát lên mùi tanh của máu thì thế nào rồi cũng bị chúng “làm thịt.”) Thời thế tạo anh hùng, trên chính trường chắc chắn sẽ sớm xuất hiện một minh chủ đủ tài năng chèo lái đất nước vượt qua bước ngoặt này, còn sau đấy mọi thứ sẽ tuỳ thuộc vào quyền tự do lựa chọn thông qua lá phiếu thực sự dân chủ của người dân.
Dù thế nào đi nữa, điều hết sức quan trọng là cần phải làm sao để không gây ra xáo trộn quá lớn, ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước cũng như đời sống nhân dân, đồng thời để tránh bàn tay can thiệp thâm độc của Trung Quốc. Vì thế tôi xin mạo muội đề xuất một số bước cơ bản sau đây:

  • Quốc hội (do dân bầu nên vẫn có đầy đủ tính hợp pháp) bầu ra một Uỷ ban Hành pháp Lâm thời (Chính phủ Lâm thời) để thay thế Chính phủ đương nhiệm, tiếp tục điều hành đất nước trong giai đoạn quá độ.
  • Quốc hội ra Nghị quyết xoá bỏ Điều 4 của Hiến pháp hiện hành.
  • Quốc hội chỉ định một Hội đồng Soạn thảo Hiến pháp Quốc gia. Hội đồng này sẽ tập hợp các chuyên gia trong và ngoài nước để soạn thảo bản Hiến pháp mới. Sau khi Quốc hội thông qua, Hiếp pháp mới phải được toàn dân phúc quyết với tỷ lệ tán thành trên 2/3 thì mới có hiệu lực.
  • Tiến hành bầu cử theo Hiến pháp mới.

Thời gian quá độ chỉ nên từ 6 tháng đến 1 năm. Cần tránh cả thái độ thụ động, chờ thời hay nửa vời lẫn tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Mọi thứ cần được tiến hành một cách bài bản, có trình tự và khoa học.
Tôi kêu gọi các bậc nhân sỹ và trí thức của nước nhà, những người đã may mắn được dòng giống tổ tiên và hồn thiêng sông núi phú cho trí tuệ hơn người để hiểu được quy luật, nhận thức được chân lý và lẽ phải ở đời, hơn ai hết các vị cần phải lên tiếng, phải thể hiện trách nhiệm đối với non sông đất nước, đừng để những “giấc mơ con” tiếp tục “đè nát cuộc đời con.” Nhắm mắt làm ngơ trước những bất công đang diễn ra hàng ngày, trước thực trạng suy thoái đạo đức ngày một nghiêm trọng và sự phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc (mà tất cả đều do sự  bịp bợm, bưng bít, độc tài, tham tàn, bạo ngược, vô liêm sỹ - tóm lại là TỘI ÁC - của Đảng CSVN) là hèn, là nhục, là vô trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân.
Bất kỳ tội ác nào, dù của cá nhân hay của tập thể, rồi cũng đều đến lúc phải trả giá. Đấy là quy luật của muôn đời. Với những ai còn đang đứng giữa đôi đường, xin hãy nhớ rằng: Phò thịnh, chớ phò suy, mà trước hết là phải biết nhảy ra khỏi con tàu đang đắm. Sự phục thiện dù muộn vẫn còn hơn không. Và cuối cùng, đừng tự biến mình thành tội đồ của lịch sử, của dân tộc để đời đời bị lên án, nguyền rủa.
Quảng Trị - 2/2009

Lê Anh Hùng

PHẦN BỔ SUNG V

Câu chuyện này mô tả diễn tiến của sự việc theo trình tự thời gian. Sau mỗi phần như vậy, cho dù có oán trách ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải đến đâu tôi cũng đều ít nhiều cảm thông và mở ra lối thoát cho họ. Song thật đáng tiếc, không lần nào họ chịu “cải tà quy chính,” nghe theo tiếng gọi của lương tâm để thành tâm phục thiện. Và cứ sau mỗi lần như thế, họ lại lún sâu hơn vào vũng lầy tội lỗi, đồng thời chân dung của các bị can ngoại hạng này lại càng được lột tả một cách chính xác hơn.
Sau khi vợ tôi sinh con được hơn một tháng (ngày 1/12/2009), Công an chính thức bắt đầu điều tra. Họ biết vợ tôi đang bị ảnh hưởng ở đầu sau ca phẫu thuật chảy máu não, nếu điều tra trong thời gian mang thai thì rất dễ nguy hiểm đến tính mạng của cả hai mẹ con. Họ tiến hành thẩm vấn vợ tôi qua điện thoại. Một trong những điều quan tâm của họ là tìm hiểu xem có ai đứng sau lưng vợ chồng tôi không. Họ cũng nhắn nhủ với tôi là đừng nên tố cáo nữa, nếu sự thật đúng như những gì tôi tố cáo, họ sẽ sẵn sàng trả cho chúng tôi một khoản tiền còn lớn hơn cả số tiền mà ba ông kia từng hứa hẹn cho vợ chồng tôi (2 tỷ USD); đồng thời họ cũng không quên doạ chúng tôi là nếu tôi mà tố cáo thêm lần nữa thì một trong hai người sẽ phải đi tù. Kiểu thẩm vấn của họ cũng rất ghê gớm. Nhiều lúc đang nhẹ nhàng ngon ngọt với vợ tôi, họ bỗng quay ngoắt 180o rồi lên giọng dọa nạt hết sức gay gắt khiến cô ấy không ít lần dựng hết tóc gáy. (Điều này khiến cho vợ tôi nhiều phen bị choáng váng, đầu óc đau ù ù.) Thậm chí, họ còn bịa ra một số tình tiết không có trong câu chuyện rồi hỏi vợ tôi để kiểm tra xem cô ấy có nhớ không, bởi trên thực tế vợ tôi chưa bao giờ đọc bức thư do tôi viết cả (cô ấy cũng cho họ cũng biết điều đó). Với một câu chuyện phức tạp và rối rắm đến như vậy, nếu không phải là người trong cuộc thì bất kỳ ai - cho dù có trí nhớ siêu việt đi chăng nữa - cũng khó lòng nhớ nổi, chứ đừng nói gì đến một người như vợ tôi.
Trước khi tung Thư Tố Cáo lên mạng lần thứ hai (ngày 12/3/2009 - với nội dung từ đầu cho đến trước PHẦN BỔ SUNG V này), ngày 27/2 tôi đã gửi bức thư ấy cho Ban Chuyên án, qua địa chỉ email của một viên sỹ quan điều tra tên là Thắng:
Kinh gui: Anh Thang,
Mong anh hay doc ky buc thu va hoi am that som cho toi. Toi cung mong anh hieu rang hien nay vo chong toi dang rat kho khan, lai o trong gia dinh vo nhu the nen thu that voi anh la toi vo cung buc boi, them mot ngay cho doi la ca mot cuc hinh doi voi toi.
Cam on anh,
Le Anh Hung
Người ta đã in bức thư ra rồi chuyển cho ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải đọc đồng thời cũng chuyển cho các uỷ viên Bộ Chính trị và một số vị “lão thành cách mạng” khác đọc, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ban Chuyên án đã nói với ba ông này là nếu họ chịu thú nhận tội lỗi, người ta sẽ “xử êm” cho họ, để họ lần lượt rút lui khỏi vị trí của mình.
Mãi tới ngày 5/3, Ban Chuyên án mới gửi email cho tôi (trước đấy họ cũng “chợn” vì chưa biết nói chuyện với tôi thế nào):
Chào Hùng,
Tôi đã nhận được thư của anh lâu rồi. Hôm nay có chút thời gian, tôi muốn nói chuyện với anh. Tôi biết anh bây giờ đang rơi vào tình thế bế tắc, lòng đầy hận thù khi xung quanh mình toàn là những kẻ độc ác, tôi biết anh bây giờ chỉ muốn trả thù và tố cáo bọn họ. Nhưng tôi khuyên anh hãy bình tĩnh và suy nghĩ lại, đừng để ảnh hưởng đến đất nước Việt Nam của mình, không nên anh ạ. Tôi và bao nhiêu người nữa đã đọc hết bức thư tố cáo của anh rồi, thật khủng khiếp.
Nếu bức thư này được tố cáo thêm lần nữa thì đất nước này hoàn toàn sụp đổ, không thể cứu vãn được nữa. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ vợ chồng anh nhưng cũng xin anh nghĩ đến đất nước này. Tôi biết tâm trạng của anh lúc này, chúng tôi có 1 lời khuyên anh nên bình tĩnh, hãy nghĩ đến tương lai sau này.
Suốt hai tuần nay chúng tôi đang thi hành tìm kiếm chứng cứ về ba ông kia. Chúng tôi cũng mệt, mong sớm kết thúc vụ việc này càng nhanh càng tốt. Vụ việc này rất là phức tạp vì liên quan đến nhiều người có địa vị trong xã hội
Tôi đã nói với vợ anh rồi, mọi chuyện từ từ cũng sáng tỏ, cái ác sẽ lòi ra ngay, có tội thì phải nhận không thể qua mắt luật pháp được. Chúng tôi tin vợ chồng anh nhất là vợ anh.
Sau khi kết thúc vụ này chúng tôi sẽ thực hiện lời hứa với vợ chồng anh như tôi đã nói với vợ anh.
Còn trong thời gian này tôi đang điều tra bí mật, chúng tôi đã có vài chứng để buộc tội ba ông kia. Mong anh hãy cho chúng tôi thêm 1 thời gian để tìm hiểu và điều tra.
Chúng tôi rất cám ơn anh. Mong anh hãy hợp tác với chúng tôi để bảo vệ đất nước này. Có gì tôi sẽ liên lạc với vợ anh.
“Lời hứa” mà họ nói ở đây là số tiền trị giá 7 tỷ USD. Họ muốn mua sự im lặng của tôi bằng số tiền khổng lồ đó. Lúc mới ra Tết Kỷ Sửu, số tiền mà họ đưa ra là 2 tỷ USD rồi sau đấy họ dần dần nâng con số này lên. Cho đến khi tôi gửi bức thư tố cáo lần 2 cho Ban Chuyên án (ngày 27/2/2009) thì họ quyết định chốt lại con số 7 tỷ USD, bằng đúng số tiền mà ba ông kia đã phải chi cho Trọng (dĩ nhiên là chúng tôi không hề đòi hỏi hay chèo kéo gì); người ta sẽ giao ngay 5 tỷ USD cho chúng tôi, số 2 tỷ USD còn lại sẽ được giao sau đấy một thời gian. Họ yêu cầu ba ông kia phải chi một phần trong số tiền trên như trước đây ba ông đã cam kết chi cho vợ chồng tôi (tổng cộng 2 lần là 3 tỷ USD).
Sau một thời gian, thấy tình hình vẫn chưa có nhiều chuyển biến, ngày 7/3, tôi gửi email cho Diệp, thư ký của Nguyễn Thanh Phượng, con gái ông Dũng, kèm theo bức thư tố cáo mà trước đấy tôi đã gửi cho Ban Chuyên án. Tôi hy vọng con gái ông Dũng sẽ sáng suốt hơn ông và sẽ biết khuyên ông xử sự một cách đúng đắn, khôn ngoan. Dĩ nhiên, cách khôn ngoan nhất chính là thể hiện sự trung thực.

Gửi Diệp,
Đề nghị Diệp chuyển thư này cho chị Phượng. Nếu không có gì thay đổi, thứ Hai, 9/3, anh sẽ tung bức thư này lên mạng. (This is a "losing battle.")
Cám ơm em rất nhiều,
LAH

Sorry, I mean "This is a 'losing battle' for her father and she knows how to advise him."
Thanks,
LAH
Tuy nhiên, ông Mạnh và ông Hải vẫn ngoan cố không chịu thừa nhận, còn ông Dũng thì lại cứ ỡm ờ, nửa muốn thú tội nửa lại không dám thừa nhận hết tội lỗi của mình. Ban đầu, lúc mới bị thẩm vấn, ông Mạnh còn lớn tiếng với Ban Chuyên án là “tại sao một người lãnh đạo đất nước thì các anh không tin mà lại đi tin những thứ vớ vẩn trên mạng?” Nhưng sau khi tôi gửi thư tố cáo cho Ban Chuyên án, ông ta lại chọn phương án im lặng, không còn dám gay gắt như trước nữa mà đòi Ban Chuyên án phải tìm ra chứng cứ buộc tội. Khi các sỹ quan điều tra doạ rằng “nếu các anh không chịu thú nhận tội lỗi thì vợ chồng nó có thể tung thư tố cáo lên mạng lần nữa, vì chúng tôi đã lỡ nói là vợ chồng nó vô tội rồi,” ông Hải còn tỏ vẻ thách thức, “Có chết thì chết cả đám chứ đây cũng không phải chết một mình đâu mà sợ!” Đây là một lý do quan trọng khiến tôi đi đến quyết định tung bức thư lên mạng lần thứ hai vào ngày 12/3/2009.
Mặc dù cùng mở ra lối thoát cho cả ba ông nhưng tôi vẫn không đặt nhiều hy vọng vào ông Mạnh và ông Hải. Bởi ông Hải rõ ràng là một trùm ma tuý, trùm mafia khét tiếng, một kẻ giết người hàng loạt. Ấy là chưa kể ông ta còn phạm tội phản quốc, bán tài liệu [liên quan đến an ninh quốc gia] cho nước ngoài nữa. Ông Mạnh thì đã được ông Hải và Trọng “cảm hóa” nên không ngừng ra sức “học tập và làm theo” hai “tấm gương đạo đức” này, tự biến mình thành một tên tội phạm tham lam, tàn ác và xảo trá. Ít nhất là đã hai lần ông ta định ra tay với tôi. Lần thứ nhất là ngay sau khi vợ chồng tôi đồng ý chia tay để “cứu” chính họ vào ngày 14/6/2007. Lần ấy, sau khi âm mưu của họ bị bại lộ, ông Dũng đã cho vợ tôi biết là Trọng đòi ông Mạnh phải giết tôi, vì anh ta sợ nếu tôi còn sống thì kiểu gì vợ tôi cũng sẽ tìm đường về với tôi; đặc biệt, ông Hải rất muốn giết tôi vì tôi biết quá nhiều bí mật tội ác của ông ta. Sau thời gian chạy vào ẩn náu ở thị xã Quảng Trị ngày 19/6/2007 và trở ra Đông Hà ngày 29/6/2007, vợ tôi đã vặn hỏi ông Mạnh về chuyện này, ông đã phải thú nhận rằng ông từng dự định là sau khi tôi nhận tiền (1 tỷ USD) xong, ông sẽ không giết mà chỉ đưa tôi “đi thật xa” thôi!!!??? Lần thứ hai là sau khi vợ con tôi ra Hà Nội vào ngày 8/11/2007 rồi sang Pháp. Ông Mạnh và ông Hải đã ngay lập tức cho người truy lùng tôi. Tuy nhiên, khi họ tìm đến được khách sạn Nam Đông thì trước đó (ngày 12/11) tôi đã lặng lẽ bỏ trốn vào Đà Nẵng. Vợ tôi còn đọc thấy quyết tâm sắt máu ấy trong đôi mắt ông Mạnh khi ông ta bí mật bay về Sài Gòn tối 14/11/2007 để trực tiếp nắm và chỉ đạo tình hình ngay trong thời gian đang ở thăm chính thức Hàn Quốc (“Đôi mắt ông ấy giờ trông ghê lắm.”). Trước tình cảnh vợ tôi ngất lên ngất xuống vì đau đớn và kiệt sức, ông ta không những không mảy may động lòng mà còn quyết tâm lấy máu của tôi và của cả bé gái mới 9 tháng tuổi hầu tô điểm cho “ngai vàng” của mình. Nhưng sau đấy, vì biết tôi đã gửi thư cho em trai mình và biết tôi chắc chắn đã đề phòng nên ông Mạnh cũng như ông Hải mới không dám ra tay với tôi nữa.
Sau khi phát hiện ra âm mưu thâm độc của ông Mạnh và ông Hải ngày 17/6/2007, tôi bảo vợ giả vờ ngọt nhạt với Trọng để đánh lừa anh ta. Trọng tưởng thật và hớn hở thổ lộ với vợ tôi, “Nghe ‘ông ngoại’ gọi điện qua mà mừng thật!” “Ông ngoại” là từ mà vợ chồng tôi thống nhất dùng để ám chỉ ông Mạnh (còn ông Dũng là “ông nội”) trong thời gian ông Nguyễn Khánh Toàn theo dõi vợ chồng tôi vào cuối tháng 4/2007. Ngoài vợ chồng tôi và ông Mạnh, ông Dũng thì không ai biết được tên gọi thân mật ấy cả. Điều này chứng tỏ ông Mạnh từ chỗ bị Trọng bắt làm “con tin” đã quay sang đồng loã và cuối cùng là đồng cảm với Trọng. Hiện tượng này được người ta đặt tên là Hội chứng Stockholm . Đây cũng chính là một cơ sở quan trọng để ông Mạnh, ông Hải và Trọng hợp thành “bộ ba nguyên tử” rồi làm ăn với nhau từ tháng 7 đến tháng 10/2007. Và chỉ riêng việc hợp tác với bộ đôi tàn độc Hải - Trọng là cũng đủ để cho người ta hình dung ra mức độ tội lỗi ghê gớm của ông Mạnh rồi.
Vì vậy, việc chờ đợi ông Mạnh và ông Hải thú tội là hơi thiếu thực tế, nếu không viện tới những biện pháp thật quyết liệt. Và người mà tôi thất vọng nhiều nhất chính là ông Dũng. Phải chăng tôi đã quá kỳ vọng vào con người này? Ông ta có thực sự chỉ là “nạn nhân” của ông Hải hay không?
Trước hết, cần phải cải chính một chi tiết trong câu chuyện là việc vợ tôi trở về Việt Nam vào cuối tháng 1/2008 không phải là do ông Dũng thuê máy bay sang đưa về mà là do vợ tôi tự trốn về Việt Nam, dù rằng trước đấy ông cũng hứa là sẽ đưa cô ấy về. Đó là một chuyến đi đẫm nước mắt mà bây giờ vợ tôi không còn dám nhớ lại vì cứ mỗi lần hình dung ra cảnh tượng thê thảm đó là cô ấy lại thêm một lần rùng mình sởn gai ốc. Vợ tôi phải dấu tôi chuyện ấy và bịa ra chuyện ông Dũng bố trí đưa về (lấy kinh nghiệm từ việc trước đấy họ đã bố trí máy bay riêng đưa vợ con tôi trở lại Anh để điều trị sau khi cô ấy trốn về Việt Nam vào đầu tháng 12/2007) là để tôi khỏi quá lo lắng trong khi đang lang thang vất vưởng ở Việt Nam. Sau này, trong thư tố cáo lần 2 tôi đã không cải chính một phần cũng là do có ý muốn “ghi điểm” cho ông Dũng. Song rốt cuộc, tất cả những thiện ý của tôi lại chỉ đem đến thêm sự thất vọng.
Số là, sau khi dàn cảnh cướp hết tiền bạc và tư trang của vợ tôi, Trinh lặn luôn một hơi không sủi tăm. Sau đó ít hôm, Thuỷ bảo với vợ tôi là đưa bà An sang Paris dọn dẹp lại ngôi nhà bên kia rồi đón vợ con tôi sang đấy ở cho an toàn. Thuỷ và bà An đi mà mấy hôm liền không hề liên lạc gì với vợ tôi cả. Cô ấy cùng con gái ở trong một ngôi nhà rộng thênh thang, hoang vắng, lạnh lẽo đến rợn người. Đồ ăn thức uống thì Thuỷ đã mua trữ sẵn trong nhà. Sức khỏe thì phập phù vì mới bị bọn cướp đánh vào đầu đến ngất xỉu ngay trong thời gian đang chờ hồi phục từ cuộc phẫu thuật chảy máu não. Một buổi sáng, sau khi nhặt nhanh khắp nhà được mấy trăm dollar lẻ cùng một chiếc nhẫn kim cương rất đẹp, vợ tôi quyết định ôm con rời khỏi ngôi nhà rùng rợn ấy. (Trước đây vợ tôi thấy Thuỷ đeo chiếc nhẫn thích quá liền xin Thuỷ; Thuỷ tặng cho vợ tôi và nói thêm rằng giá trị của nó đủ để mua một căn biệt thự ở Việt Nam. Cô ấy đã tháo ra cất trước khi bọn cướp ập vào nhà nên không bị mất.) Khu vườn nhà rộng mênh mông ngập trong tuyết trắng xoá. Ra đến đường, vợ tôi vừa bế con đi vừa vẫy xe. Một vài chiếc xe dừng lại nhưng vợ tôi chẳng biết làm gì ngoài việc chỉ tay lên trời rồi nói “Việt Nam, Việt Nam” khiến họ chẳng hiểu gì cả nên lại bỏ đi. Đi mãi, đi mãi, cuối cùng cũng có một chiếc taxi dừng lại. Vợ tôi lại chỉ tay lên trời và nói “Việt Nam, Việt Nam.” Người tài xế taxi hiểu ý, chở vợ tôi ra sân bay. Ra đến sân bay, con gái tôi gần như lả đi vì lạnh và đói. Bước vào toà nhà trung tâm, vợ tôi bị các nhân viên an ninh chặn lại. Một nữ nhân viên an ninh nhìn thấy chiếc nhẫn kim cương trên tay vợ tôi liền chộp lấy tay cô ấy đưa lên xem. Vừa lúc đó, vợ tôi chợt nhìn thấy một cô gái đeo trên ngực phù hiệu Vietnam Airlines đi ngang qua, chỉ cách khoảng mấy bước chân. Quá mừng rỡ, vợ tôi liền vùng chạy theo cô gái kia. Vợ tôi nói với cô gái, “Em bị người ta lừa đi sang đây. Chị giúp cho em về Việt Nam với. Em không có tiền nhưng em sẽ trả cho chị chiếc nhẫn quý này, giá trị của nó có thể mua được một căn biệt thự ở Việt Nam đấy.” Cô gái dẫn vợ tôi đi tới gặp một người đàn ông hình như là cơ trưởng gì đấy. Sau đó, họ đưa vợ con tôi đến khu nhà dành cho đoàn bay. Vợ con tôi được bố trí ở trong một căn phòng của toà nhà. Người ta nhiệt tình mua sữa và thức ăn cho vợ con tôi. Vợ tôi phải ở lại sân bay hai ngày vì bão tuyết, máy bay không cất cánh được. Đến nửa đêm thứ ba, họ bí mật đưa vợ con tôi chui qua hàng rào và leo lên máy bay ngồi trước rồi chờ ở đấy. Hôm sau, máy bay mới cất cánh về Việt Nam. Xuống sân bay Nội Bài, vợ tôi phải gọi điện cho ông Dũng và ông cho người vào tận sân bay đón vì cô ấy không có giấy tờ gì trong người cả.
Để có thể khắc hoạ rõ nét hơn chân dung thực sự của ông Dũng, tôi xin điểm lại ở đây những lần chủ yếu mà ông đã lợi dụng lòng tin để lừa dối vợ chồng tôi.

  • Lần thứ nhất là vào cuối tháng 4/2007. Lần đó ông định dụ tôi vào Đà Nẵng gặp ông rồi ở Đông Hà ông sẽ đón vợ con tôi đi theo Trọng.
  • Lần thứ hai cũng cuối tháng 4/2007 (vào đúng hôm mà buổi chiều cùng ngày ông tiếp Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đang ở thăm và làm việc tại Việt Nam). Lần ấy ông bí mật vào Đông Hà rồi gặp vợ tôi ở cơ quan ông Bùi Đại Thắng và nói, “Con hãy tạm thời đi theo bố một thời gian…”
  • Lần thứ ba là vào ngày 11/5/2007. Ông nói với vợ tôi là ông sẽ đi ô tô về Hà Tĩnh thăm ba tôi.
  • Lần thứ tư là vào ngày 8/7/2007. Ông bảo với vợ tôi sau khi đi thăm Ấn Độ về ông sẽ bí mật bay vào Huế để gặp gỡ và đưa tiền cho vợ chồng tôi.
  • Lần thứ năm là vào ngày 9/7/2007. Ông bảo ông đã gọi điện cho ba tôi ở Hà Tĩnh theo yêu cầu của tôi để ba tôi yên tâm.
  • Lần thứ sáu là vào ngày 7/11/2007. Ông bảo cho ô-tô vào đón vợ chồng tôi ra Hà Nội rồi ra nước ngoài.
  • Lần thứ bảy là vào ngày 7/4/2008. Ông bảo sẽ gửi 50 triệu cho vợ chồng tôi, sau khi tôi đã gửi thư cho ông qua Diệp, thư ký của con gái ông.
  • Lần thứ tám là vào ngày 8/4/2008. Ông nói với vợ tôi là hãy bảo tôi gửi thư cho thư ký của con gái ông để phủ nhận nội dung bức thư tố cáo. “Yên tâm đi. Ta không bao giờ lừa con đâu!”
  • Lần thứ chín là vào ngày 15/4/2008. Ông báo với vợ tôi chuyện mẹ tôi tố cáo cô ấy buôn bán ma tuý.
  • Lần thứ mười là vào cuối tháng 5/2008. Sau khi tôi đã bán nhà và vào Đông Hà với vợ con. Ông bảo sẽ bố trí công việc cho tôi, đồng thời nếu ông Mạnh mà không chịu chuyển 300 triệu Euro cho vợ chồng tôi thì ông sẽ cùng tôi đứng ra tố cáo ông Mạnh và ông Hải.

Tôi liệt kê dài dòng những chi tiết hầu hết đã được kể trong câu chuyện như thế là muốn qua đó để nêu lên một nhận định rằng nỗ lực phục thiện của ông Dũng cũng giống như một kẻ cố đuổi theo cái bóng của mình vậy. Từ một nạn nhân đáng thương, ông ta đã trở thành một tội đồ, một kẻ nói dối trơ trẽn. Những gì kể dưới đây sẽ minh hoạ rõ nét hơn cho nhận định đó.
Sau mấy lần bị thẩm vấn, đầu tháng 3/2009 ông Dũng mới hé mở cho Ban Chuyên án một manh mối để điều tra. Đó là Tuấn, bạn thân của Trọng, hiện đang cư trú ở Mỹ. Ông bảo họ cứ liên lạc với Tuấn thì sẽ tìm ra chứng cứ của vụ án. Ông đưa cho họ số điện thoại của Tuấn. Công an liên lạc với Tuấn thì được biết, trước khi chết Trọng đã giao toàn bộ chứng cứ cho Trinh. Tuấn cho Công an số điện thoại của Trinh, người hiện cũng đang ở Mỹ. (Thực ra, hôm thứ Năm, 5/3, khi vợ tôi cho tôi biết mấy người trong Ban Chuyên án hỏi xem có còn nhớ manh mối nào trong vụ án không, tôi bảo vợ nói với họ là hiện nay chắc chắn Trinh còn nắm giữ một số chứng cứ vì thời gian ở London anh ta đã dàn xếp vụ cướp tiền bạc và tư trang của cô ấy và của Thuỷ. Họ bảo là tại sao không nói sớm cho họ biết để điều tra.)
Ban Chuyên án đề nghị vợ tôi gọi điện cho Trinh và bảo cô ấy hãy tỏ ra ngọt nhạt với anh ta để anh ta giao chứng cứ cho. Ngày Chủ nhật, 8/3/2009, vợ tôi gọi điện cho Trinh thì được anh ta cho biết là trước khi về Việt Nam lần cuối cùng vào ngày 23/3/2008, Trọng đã linh cảm được cái chết cận kề của mình nên quyết định giao cho Trinh toàn bộ chứng cứ và dặn dò Trinh là “sau này nếu Phương mà bị Công an hỏi đến thì đưa chứng cứ ra để bảo vệ nó; còn nếu Công an không hỏi đến nó thì thôi.” Trinh nói, Trọng biết kiểu gì tôi cũng tố cáo nên phòng xa cho vợ tôi. Trinh còn cho biết là vụ cướp ở London là do ông Hải và Trọng sắp xếp chứ anh ta không biết gì (?) . Số chứng cứ Trinh đang nắm trong tay là đầy đủ và rất phong phú, toàn là bằng chứng gốc, chứa đầy một vali mà Trinh nhận xét là “rất kinh khủng,” ngoài ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải còn có cả bằng chứng phạm tội của những người như ông Nguyễn Sinh Hùng. Trinh biết tôi đã tung thư tố cáo lên mạng và nói, theo đúng như lời Trọng dặn dò, anh ta sẽ chỉ giao số chứng cứ này cho vợ tôi hoặc cho tôi. Trinh còn nói là anh ta biết ai là người đang đứng sau lưng chúng tôi (?). Nếu vợ chồng tôi không sang Mỹ được thì anh ta sẽ sớm thu xếp trở về Việt Nam để trao cho vợ chồng tôi. Trinh còn bảo vợ tôi là tại sao ngày xưa không nghe lời anh ta để bây giờ ra nông nỗi này. (Hồi ở London, anh ta đã khuyên vợ tôi là cứ giả vờ yêu Trọng chứ có mất gì đâu mà sợ. Sau đó sẽ tìm cách đưa chồng sang rồi tính tiếp.)
Ban Chuyên án liên lạc với Trinh. Trinh đồng ý cho một sỹ quan bay sang Mỹ để anh ta đưa cho một vài chứng cứ, tuy không mạnh lắm. Và viên sỹ quan ấy là người do chính anh ta lựa chọn (?).
Ngày thứ Hai, 9/3, viên sỹ quan Công an kia lên đường sang Mỹ gặp Trinh. Trong tâm trạng vô cùng nóng ruột và ức chế, tôi gửi thư cho Ban chuyên án.
Kính gửi: Anh Thắng và các anh trong Ban Chuyên án
Tôi nghĩ vụ này coi như đã rõ trắng đen rồi, các anh đã có thể đưa ra kết luận, chỉ còn thiếu một vài chứng cứ để có thể chính thức buộc tội nữa thôi. Vậy thì không hiểu sao các anh lại không đáp lại thiện chí hợp tác của vợ chồng tôi, trong khi ngày nào tôi cũng cứ phải sống trong cảnh bức bối về tiền bạc và ức chế với bầu không khí ngột ngạt của gia đình vợ? Chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi nên không bao giờ dám đặt trọn niềm tin vào bất cứ ai đâu, kể cả các anh cũng vậy. Rất mong các anh hiểu cho. Tôi thấy các anh cứ hẹn lần này đến lần khác, và đến bây giờ thì hình như các anh cũng không còn buồn hẹn nữa hay sao ấy. Tôi thực sự vô cùng nóng ruột và ức chế thần kinh.
Mong các anh suy xét và bớt chút thời gian hồi âm cho tôi.
Xin gửi tới các anh lời chào trân trọng,

Lê Anh Hùng
Ngày thứ Tư, 11/3, viên sỹ quan Công an kia mới về tới Hà Nội, mang theo một số chứng cứ bằng văn bản về sự dính líu của ba ông kia, tuy nhiên lại không đủ sức nặng cho lắm. Ban Chuyên án quyết định cho tôi sang Mỹ gặp Trinh để lấy hết số chứng cứ còn lại.
Ông Lê Hồng Anh bảo tôi gửi ảnh để làm hộ chiếu thì tôi bảo vợ nói với ông là chỉ cần đến kho lưu trữ hồ sơ CMND, lục lấy ảnh của tôi, chụp lại rồi làm là được. (Ông Lê Hồng Anh đã dũng cảm thừa nhận toàn bộ sai phạm của mình như trong Thư Tố Cáo. Vì thế ông được Bộ Chính trị tin tưởng cho tham gia Ban Chuyên án để điều tra vụ này. Sự dũng cảm và thức thời của ông quả là rất đáng khâm phục.)
Chiều thứ Năm, 12/3, ông Lê Hồng Anh cho vợ tôi biết là chiếu mai, 13/3, ông sẽ thông báo về chuyện hộ chiếu để chuẩn bị cho tôi đi nước ngoài. 5h chiều hôm đó, tôi đi từ tiệm Internet về và được vợ cho biết tình hình. Do quá bực tức trước thái độ lần lữa của họ, cộng với sự thôi thúc bấy lâu dồn nén trong lòng, dù đã chiều tối và lại là ngày gần cuối tuần, tôi vẫn quyết định đi một mạch đến tiệm Internet để tung Thư Tố Cáo lên mạng lần nữa. Lần này thì số địa chỉ email mà tôi gửi thư lên tới gần 2.000.
Sau khi bức thư được tung lên mạng lần thứ hai, tôi mới biết Ban Chuyên án này là do Bộ Chính trị chỉ đạo, chỉ trong phạm vi Bộ Chính trị biết mà thôi. Vì sau đấy, một số sỹ quan Công an từng thẩm vấn vợ tôi qua điện thoại đã gọi điện doạ dẫm cô ấy. (Ngoài ra, trong Ban Chuyên án này chắc chắn là có tay chân của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải, bởi ngay sau đó, Trinh đã bị đánh động và lặn mất tăm.) Bộ Chính trị định “xử êm” vụ này và sau khi gạt ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải ra khỏi vòng quyền lực, họ sẽ chia nhau những chiếc ghế đầy quyền hành và béo bở này. Sau khi tôi gửi THƯ TỐ CÁO lần thứ hai, Bộ Chính trị đã thành lập một Ban Chuyên án mới.
Với áp lực ngày càng tăng, ông Dũng buộc phải đưa ra quyết định từ chức vào ngày 1/4/2009, dù với những lý do lãng xẹt, không liên quan đến câu chuyện này . Sau đấy, ông Mạnh cũng phải viết đơn xin từ chức. Ông Mạnh và ông Hải vẫn một mực không chịu thừa nhận tội lỗi của họ mà đòi Ban Chuyên án phải tìm ra bằng chứng kết tội. Ông Dũng tuy có thái độ hợp tác hơn nhưng vẫn theo kiểu “lửng lơ con cá vàng.” Ngôi vị quyền lực số 1 hiện đã rơi vào tay ông Nguyễn Minh Triết, người bỗng dưng “bất chiến tự nhiên thành.” (Dù sao, ông cũng là một nhân chứng quan trọng trong câu chuyện.) Tất cả những gì đang diễn ra hiện nay chỉ là một màn kịch hòng che mắt dư luận và đánh lừa tình báo nước ngoài mà thôi.
Thực ra, thái độ của ông Dũng chỉ cho thấy đây là một bước đi đầy toan tính của ông ta mà thôi. Ông ta biết mình không thể trơ tráo phủ nhận sạch trơn và tỏ thái độ thách thức như ông Hải, nên đây là cách để ông ta vừa thể hiện “thiện chí,” vừa để “câu giờ” đồng thời nghe ngóng phản ứng từ ông Mạnh và ông Hải. Bởi nếu thực sự thành tâm thì hà cớ gì ông ta lại không trao cho Công an số chứng cứ mà ông Bùi Đại Thắng thu thập được tại nhà tay trợ lý của ông Hải ở Quy Nhơn, Bình Định. Số tài liệu này hồi đó ông Thắng giao cho ông Dũng một phần và ông Mạnh một phần (vì lúc ấy ông Dũng đã bị ông Hải “trói” nên ông Thắng tuy do ông Dũng cử đi song vẫn bàn giao một số tài liệu quan trọng cho ông Mạnh, người mà ông Thắng cảm thấy tin tưởng hơn.) Hoặc ông ta có thể chính thức thừa nhận toàn bộ tội lỗi của mình, tố cáo lại ông Mạnh và ông Hải để Công an có cơ sở kết tội hai ông này. Còn nếu ông ta đã giao nộp chúng hết cho ông Hải thì hoặc ông ta là một kẻ ngây thật và thật thà còn hơn cả một đứa trẻ hoặc ông ta đã chủ tâm đồng loã với ông Hải trong câu chuyện, chứ hoàn toàn không đơn giản là “nạn nhân” bị ép buộc. Những chứng cứ này đã được ông Thắng bàn giao tận tay cho ông Dũng và ông Mạnh. Thời gian đó ông Dũng từng nói với vợ tôi là “Suýt nữa thì đất nước rơi vào tay giặc,” ý chỉ việc ông Hải bán tài liệu cho nước ngoài. Việc này mãi về sau này ông Hải mới biết. Cần nói thêm là sau khi bức thư được tung lên mạng lần đầu tiên (ngày 21/4/2008), ông Dũng -  cũng như ông Mạnh và ông Hải - đã từng chối bay chối biến về sự dính líu của mình trong câu chuyện, đồng thời cứ một hai khẳng định rằng tôi là một “thằng khùng.”
Trở lại với con đường tội lỗi của ông Dũng. Thái độ của ông Dũng buộc người ta phải lật lại giả thiết về mức độ mà ông ta bị ông Hải giăng bẫy. Ông từng sám hối với vợ tôi rằng vì ông say nên bị ông Hải đưa vào bẫy. Tuy nhiên, “say” mà vẫn hoàn tất hoạt cảnh đó (để cho ông Hải quay phim) thì người ta có quyền đặt dấu hỏi về mức độ “say” của đương sự. Hơn thế, nếu có sự đồng thuận của cô gái thì không việc gì ông Dũng lại sợ cô gái kia tố cáo đến mức phải đồng loã với ông Hải trong vụ giết người diệt khẩu.
Ngoài ra, thời gian vợ chồng tôi mới chạy vào Đông Hà lánh nạn, ông Hải từng “xúi” ông Dũng tìm cách thủ tiêu tôi “để sau này Phương đỡ khổ.” Như vậy, thật ngây thơ khi lại tin rằng cho đến lúc ấy ông Dũng vẫn chưa nhận ra bản chất gian ác của ông Hải. Bất chấp thực tế đó, hai ông này vẫn có một quãng thời gian hết sức thân thiết với nhau. Điều này thì trong Chính phủ hầu như ai cũng biết và những cử chỉ thân mật đến độ suồng sã giữa hai người hẳn cũng đủ khiến nhiều kẻ phải cảm thấy xốn mắt. Thậm chí ngay sau khi ông Dũng ngồi vào chiếc ghế Thủ tướng, ở bên ngoài người ta đã kháo nhau rằng sau Đại hội Đảng lần thứ XI, ông Dũng sẽ thâu tóm chức vụ Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước còn ông Hải sẽ nghiễm nhiên trở thành Thủ tướng. (Riêng mối quan hệ thân thiết giữa ông Dũng và ông Mạnh thì vì lợi ích chiến lược nên hai người này không để lộ ra và rất ít người được biết.) Nếu vụ việc không bị phanh phui, chưa biết cặp bài trùng tội lỗi Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải sẽ đưa con thuyền đất nước đi tới bờ bến nào.
Sau khi bộ mặt thật của ông Hải bị lộ ra ngày 23/3/2007, ông Dũng sợ hãi đến độ mất ăn mất ngủ. Và kể từ đó cho đến tận bây giờ, ông ta vẫn sợ ông Hải như sợ cọp. Tóm lại, nỗi đam mê quyền lực vô độ đã khiến ông Dũng đồng loã - hơn thế, nhiều khi còn đồng cảm - với con quỷ đội lốt người Hoàng Trung Hải; và sự ươn hèn đã biến ông ta thành một “con tin” nhu nhược trong tay ông Hải, bất chấp đạo lý, tự đẩy mình ngày một lún sâu hơn vào vũng bùn tội lỗi. Không đủ dũng cảm và quyết đoán để lập công chuộc tội, tự định đoạt số phận của mình khi còn có cơ hội, mà chấp nhận trao nó vào tay kẻ khác, ông Dũng đã cho người ta thấy ông chính là tội đồ hơn là nạn nhân. Và, như một kẻ cứ cố đuổi theo cái bóng của mình, con đường phục thiện của ông ta xem ra còn dài miên man ở phía trước. (Theo logic này mà xét, việc ông Dũng tỏ ra hối lỗi rồi thổ lộ với vợ tôi ngày 17/6/2007, “Thực ra, tội của bố nhẹ hơn ông Mạnh nhiều...” chẳng qua là do lúc đó âm mưu của bọn họ đã bại lộ và vợ chồng tôi có thể tố cáo bất cứ lúc nào.)
Ngày 10/4/2009, ông Lê Hồng Anh và sau đó là ông Nguyễn Minh Triết đã liên lạc với vợ tôi để trấn an vợ chồng tôi, vì họ biết chúng tôi đang gặp khó khăn. Họ bảo vợ chồng tôi “cứ yên tâm,” mặc dù tình hình ở Hà Nội đang “cực kỳ khủng hoảng.” Nhà nước sẽ đảm bảo quyền lợi cho vợ chồng tôi.
Thiên bất dung gian, cái ngày mà bộ mặt thật của “nhà cải cách ôn hoà” Nông Đức Mạnh , “vị Thủ tướng cấp tiến” Nguyễn Tấn Dũng và “nhà kỹ trị” Hoàng Trung Hải bị phơi bày trước bàn dân thiên hạ chắc chắn chỉ còn tính tuần, tính tháng nữa thôi. Đến lúc ấy, dù có hối hận bao nhiêu đi nữa thì cũng đã muộn mất rồi.
÷
Ngày 8/6/2009, tôi gửi email cho Diệp, thư ký của con gái ông Dũng, kèm theo nội dung trên đây của PHẦN BỔ SUNG V này:
Diệp thân mến,
Đề nghị Diệp chuyển bức thư này cho chị Phượng. Anh không muốn là sẽ buộc phải tung bức thư này lên mạng lần nữa, hoặc ít nhất là phải đóng đinh hình ảnh của ông Dũng như trong Phần bổ sung này.
Cám ơn em rất nhiều,

 Lê Anh Hùng
Sau đấy, dù đã thú nhận phần nào tội lỗi của mình nhưng ông Dũng vẫn không dám khai gì liên quan đến ông Mạnh và ông Hải, cũng như không cung cấp chứng cứ mà ông Thắng thu thập được tại nhà tay trợ lý của ông Hải ở Quy Nhơn cho Ban Chuyên án. Ngày 18/6, vợ tôi liên lạc với một viên sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án và được ông này cho gặp ông Dũng. Ông nói, "Bố không dám xin được tha thứ. Tội của ai làm người ấy chịu. Tội của bố làm bố chịu. Chỉ có người trong cuộc mới hiểu được hết thôi con ạ." Dường như ông muốn thanh minh cho thái độ hợp tác nửa vời của mình với Ban Chuyên án.
Ngày 7/6/2009, Trinh bị bắt ở Trung Quốc và bị dẫn độ về Việt Nam. Đầu mối quan trọng nhất đã được tìm ra và vụ án coi như đã nhìn thấy hồi kết. Tuy nhiên, dù đã mấy lần được phía Công an thông báo là vụ án sắp xong nhưng cho đến nay vợ chồng tôi vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải vẫn cứ yên vị như thường. Không hiểu người ta định kéo dài màn kịch này đến bao giờ? (Thời gian vừa qua, nhiệm vụ chính của ông Mạnh chỉ là trình diễn trước ống kính camera mà thôi. Ông ta thậm chí chẳng còn đủ tư cách để chỉ đạo Hội nghị Quân chính Toàn quân do Đảng ủy Quân sự Trung ương, mà ông ta là người đứng đầu, tổ chức vào ngày 24/6 vừa rồi. Dù sao, các vị tướng lĩnh quân đội cũng là những người nổi tiếng bộc trực và ngang ngạnh khác người. Nếu ai tinh ý thì có thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh ông Mạnh trong suốt thời gian qua là rất lu mờ; tuy vậy, nhiều lúc ông ta cũng không dấu nổi vẻ mặt sượng sùng, gượng gạo của một “diễn viên” bất đắc dĩ. Cả ba ông hiện đều bị Công an giám sát chặt chẽ, tuy vẫn tiếp tục điều hành công việc và xuất hiện trên truyền hình để che mắt thiên hạ. Nhất cử nhất động của họ đều bị Công an theo dõi; các cuộc điện thoại phải được sự cho phép của Công an mới được thực hiện.)
Ngày 3/7, vợ tôi được tiếp chuyện với một viên sỹ quan cao cấp trong Ban Chuyên án. Ông nói, “Cháu đang đi làm à? Làm như thế chắc chồng cháu buồn lắm phải không? Nhưng mình làm ăn chân chính chứ có gì đâu mà phải ngại.” “Chú chưa gặp được vợ chồng cháu song đúng là chồng cháu đã viết một lá thư thật ‘khủng khiếp.’ Lúc đầu không ai tin vào câu chuyện này cả. Bức thư đã tạo ra một bầu không khí còn hơn cả chiến tranh.” “Chú tin 100% là có ai đấy đứng sau lưng vợ chồng cháu nhưng các chú chưa tìm ra được.” “Các chú không như nhóm công an điều tra trước đây đâu. Các chú không sợ ai cả. Kể cả ông Trời xuống đây các chú cũng không sợ.” Vợ tôi hỏi, “Thế mấy tháng, mấy năm nữa thì xong hả chú?” “Cháu nghĩ các chú là một lũ ngu cả hay sao? Sắp xong rồi cháu à.” Trước đấy, ngày 27/6, vợ tôi cũng được một viên quan cao cấp khác trong Ban Chuyên án cho biết là “vụ việc sẽ khép lại trong tuần tới.”
Tối 6/7/2009, vợ tôi lại được gặp một viên sỹ quan cao cấp khác của Ban Chuyên án qua điện thoại. Ông này cho biết là chỉ trừ chứng cứ giết người của ông Hải là chưa tìm ra được (với một kẻ cáo già như ông Hải thì đây là điều hoàn toàn dễ hiểu; hơn thế, với kiểu cách hành xử của một bố già mafia đích thực, các vụ giết người ở đây thường là do tay chân của ông Hải thực hiện theo lệnh của ông ta; ngoài ra, bọn họ đã có một thời gian dài để tìm mọi cách xóa hết dấu vết tội lỗi của mình), còn những chứng cứ khác đã đủ để kết tội ba ông kia. Và nếu đây là một vụ kiện thì coi như chúng tôi đã giành phần thắng. Ông cũng cho biết là họ đã đổ rất nhiều công sức, quên ăn quên ngủ, bỏ bê hết tất cả để tập trung vào vụ này, thậm chí đôi khi còn phải dốc cả tiền túi ra để mua chuộc đối tượng, thu thập chứng cứ và thông tin. Và thành quả đạt được là thực sự bõ công. Ông còn hỏi thẳng vợ tôi là có phải ông Triết đang đứng sau lưng vợ chồng tôi không, vì có thư tố cáo ông Triết làm chuyện đó. Trước đây họ cũng đã từng úp mở về chuyện ấy nhưng lần này họ đã huỵch toẹt vấn đề ra luôn. Thật là lố bịch, trong khi những kẻ thủ ác táng tận lương tâm vẫn đang nhơn nhơn chường bộ mặt đáng kinh tởm trên truyền hình mỗi ngày thì họ lại cứ một hai cố tìm hiểu xem ai là kẻ đang đứng sau lưng vợ chồng tôi!
Ngày 19/7/2009, vợ tôi tiếp đoàn khách Công an gồm 5 sỹ quan Công an từ Hà Nội và hơn mười người ở Quảng Trị, cùng nằm trong Ban Chuyên án. Cuộc gặp mặt này có sự hiện diện của hai “đệ nhất bồ bịch” của ông Dũng và ông Hải. Công an đang tìm cách khai thác thông tin từ hai cô gái này. Một cô tên là Phương, biệt danh là Chip, sinh năm 1982, quê gốc ở Đông Hà, là bồ của ông Dũng. Cô kia quê ở Huế, sinh năm 1985, là bồ của ông Hải. Hai cô gái đẹp đến nỗi cả nhà hàng hầu như không ai thiết tha gì đến việc ăn uống mà cứ như bị hai cô hút mất hồn. Phương hào hứng cho mọi người xem đoạn phim lưu trong điện thoại quay cảnh tình tự giữa mình và ông Dũng. Cô ta dùng đến 6 chiếc điện thoại và chiếc nào cũng lưu những hoạt cảnh nóng bỏng này cả. Vợ tôi vờ mượn máy để lưu số điện thoại và có mở xem một được một đoạn, thấy rõ hình ảnh ông Dũng. Phương nói là đoạn phim trên cô ta thuê người quay và nhờ quay phim thế này mà cô ta đã tống tiền được các đại gia, dĩ nhiên ông Dũng là một đại gia “ngoại hạng” rồi. Thật khốn khổ cho ông Dũng! Vợ tôi còn phát hiện trong một clip khác có mặt cả Trọng. Hai cô gái này uống bia rất kinh. Mỗi cô làm hết 1 két Heinneken loại lon cao, thế mà xong rồi có cô còn than thở là “hôm nay uống kém quá, bình thường phải chơi hết 2 két!”. Họ kể nhiều chuyện về hai ông này, như chuyện được các ông đưa ra nước ngoài trong những chuyến công du; hai cô cũng nói là không hiểu hai ông kia lặn đâu mất tăm bấy lâu mà liên lạc không được (vì bị Công an giám sát chặt).
Vậy là đã rõ, người ta đã có thể đưa ra kết luận về vụ việc cho dù chưa phải là khép lại hoàn toàn. Nhưng bây giờ lại là lúc mà các phe nhóm trong Đảng đang tập trung đấu đá lẫn nhau. Đấy chính là lý do khiến họ cố tình “giam” vợ chồng tôi suốt thời gian qua để tìm hiểu xem liệu có ai đứng sau lưng chúng tôi hay không. Và người mà họ nghi ngờ nhất, cũng là người mà họ muốn gạt ra khỏi cuộc tranh giành quyền lực này nhất, chính là ông Nguyễn Minh Triết, người hiện đang mặc nhiên tạm thời đảm nhiệm vị trí của ông Mạnh, dù chưa phải chính thức. Oái ăm thay, đây dường như lại là nhân vật duy nhất có đủ khả năng đưa đất nước vượt qua khỏi cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay. Trong giai đoạn này, đất nước cần một nhà lãnh đạo đủ tài năng và bản lĩnh để đương đầu với rất nhiều thách thức phức tạp, gay cấn ở cả trong nước lẫn ngoài nước; đặc biệt, người đó cần phải có lập trường vừa khôn khéo vừa rõ ràng và mạnh mẽ trước Trung Quốc. Một kẻ thiếu tài năng và bản lĩnh rất dễ để cho đất nước tiếp tục sa vào quỹ đạo của Trung Quốc, rồi trở về với hình ảnh một quốc gia ươn hèn, bạc nhược như suốt mấy chục năm qua, mặc cho gã hàng xóm tham lam, xấu tính và tàn ác này cứ “được đằng chân, lân đằng đầu.” Ngay lúc này đây, việc tìm ra một khuôn mặt sáng sủa để ngồi vào vị trí của ông Dũng dường như còn quá khó (ông Dũng đã sẵn sàng từ bỏ chức vụ), huống hồ là một người đủ tài năng và bản lĩnh để chèo lái con thuyền đất nước trong cơn giông bão hiện nay. Dù thế nào đi nữa, sau khi vụ việc bị phanh phui, việc thay đổi Hiến pháp xem ra là điều không thể tránh khỏi, và khi ấy những lá phiếu bầu thực sự dân chủ của người dân mới quyết định ai là người lãnh đạo quốc gia. Lẽ ra trong lúc này, họ phải gạt bỏ mâu thuẫn, đồng tâm nhất trí đưa đất nước vượt qua cơn bĩ cực này, vì lợi ích quốc gia, vì sứ mạng của họ trước bước ngoặt lịch sử của dân tộc. Song thay vì thế, họ lại chỉ nhăm nhe thọc dao vào lưng nhau và thừa cơ đục nước thả câu. (Chắc chắn, việc tìm ra một nhân vật “sạch sẽ” trong cái đám ấy còn khó hơn cả chuyện mò kim đáy bể. Nếu có vị nào đấy chưa bị “lộ” thì cũng đừng nên vì thế mà tự vỗ ngực rằng ta đây “tài đức vẹn toàn!”) Và xem chừng, “cuộc vật lộn trên biển lớn” này còn có nguy cơ kéo cả con thuyền đất nước chìm nghỉm luôn.
Chiều ngày 2/8/2009, vợ tôi đi tiếp đoàn khách của Công an Quảng Trị. Giữa chừng buổi tiệc, vợ tôi đi toilet một lúc rồi quay vào thì bất ngờ chạm trán ông Nguyễn Minh Triết cùng một nhóm người lạ mặt nữa. Họ như từ dưới đất chui lên vậy. Thì ra, ông Triết và đoàn tuỳ tùng mới tới Đông Hà vào đầu buổi chiều. Vợ tôi vẫn nhận ra ông Triết vì “đã gặp ông này một lần cũng như thấy nhiều lần trên TV nữa.” Ông Triết cũng hỏi thăm cô ấy vài câu xã giao. Mấy người đi theo ông hỏi han và săm soi vợ tôi khá kỹ. Cô ấy kể lại là “họ nghiêm lắm, ngồi bên họ mà đôi lúc nổi hết cả da gà!” Một vài người trong bàn tiệc lên tiếng động viên vợ chồng tôi. Cuối buổi tiệc, ông Triết cùng đoàn tuỳ tùng rời Đông Hà và vào Huế. Tôi biết, nếu không có sự dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cùng thái độ không khoan nhượng của ông, chắc chắn vụ việc này khó lòng bị lôi ra ánh sáng (dĩ nhiên, công sức của các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án cũng rất lớn). Đơn giản là ai cũng dễ dàng nhận thấy thuộc hạ của ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải là “đông như quân Nguyên.” Kết quả điều tra đã cho thấy sau lưng ba ông này, đặc biệt là ông Mạnh và ông Hải, là cả một tập đoàn tội phạm (tham nhũng), tuy mức độ dính líu có khác nhau. Mặc dù vậy, quá bức xúc và ngán ngẩm trước cảnh đấu đá tranh giành quyền lực nội bộ trong tình thế mà lẽ ra họ cần phải đoàn kết với nhau hơn lúc nào hết, ngày 23/7 vừa qua, ông Triết đã viết đơn từ chức và xin ra khỏi Đảng.

Tôi đã thể hiện trách nhiệm của một công dân trước Tổ quốc, không lóa mắt trước tiền bạc cũng như không run sợ trước cường quyền, đồng thời đã hợp tác đầy đủ với họ để đi đến một giải pháp tối ưu, không chỉ cho vợ chồng tôi, cho các bị can chính trong câu chuyện, mà còn cho cả chế độ chính trị này nhằm giữ thể diện quốc gia (thay đổi Hiến pháp và chuyển sang nền dân chủ thực sự một cách êm thấm). Tôi cũng đủ cảnh giác để không “câu kết” hay dính líu đến bất kỳ một đảng phái hay tổ chức “phản động” nào cả. Song dường như họ muốn thử thách chúng tôi đến tận cùng của sự nhẫn nhục và sức chịu đựng. Chỉ có điều là mọi thứ đều có giới hạn của nó. Họ thiếu sự tôn trọng đối với người mà họ đang muốn hợp tác, thậm chí họ cũng không thèm đếm xỉa đến tình trạng bệnh tật của vợ tôi, điều mà tôi luôn luôn lo lắng. Tôi không thể tiếp tục kiên nhẫn ngồi chứng kiến màn đấu đá tranh giành quyền lực xem chừng không có hồi kết của họ trong tình thế nước sôi lửa bỏng của nước nhà như hiện nay được nữa.

Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Tôi kêu gọi các vị Ủy viên TW Đảng có lương tri hãy khảng khái lên tiếng. Tôi cũng kêu gọi các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án hãy dũng cảm đưa vụ việc ra trước công luận. Hãy chấm dứt ngay những trò dối trá, bịp bợm  vô liêm sỹ đang diễn ra hàng ngày. Hãy thức tỉnh lương tâm và đưa dân tộc ra khỏi cơn ác mộng “cộng sản” đã kéo dài hơn nửa thế kỷ qua. Đây cũng chính là cơ hội cuối cùng của Đảng Cộng sản Việt Nam trước khi mọi thứ vuột ra khỏi tầm kiểm soát của họ.

Quảng Trị - 8/2009

Lê Anh Hùng

(!) Ông Nguyễn Việt Tiến vừa mới thoát khỏi vòng lao lý (28/3/2008), đang hý hửng tính chuyện sớm “giành lại những gì đã mất” thì đùng một cái, bức thư này được tung lên mạng (21/4/2008), ông Mạnh vội co vòi lại, không còn dám ra mặt bảo vệ chiến hữu của mình nữa. Kết quả là ông Tiến bị Ban Bí thư lột sạch mọi chức vụ, đành ngậm ngùi “trở về với máng lợn.” Diễn biến này khiến cả báo chí trong và ngoài nước lẫn “thông tấn xã vỉa hè” đều bị một phen chưng hửng mà chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao. Điều này cũng phản ảnh đầy đủ thực chất của cái gọi là “nhà nước pháp quyền XHCN” và “quyết tâm chống tham nhũng” như Đảng ta vẫn không ngớt rêu rao, hô hào. Pháp luật chỉ là công cụ trong tay Đảng, là đối tượng không ngừng bị các nhóm lợi ích con trong nhóm lợi ích khổng lồ mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam thao túng và vô hiệu hoá hòng trục lợi cho cá nhân và bè đảng của mình.

Ông Đỗ Mười là tác giả của những màn ăn cướp trắng trợn và vô đạo như cuộc “Cải tạo công thương nghiệp XHCN” ở miền Nam sau năm 1975 và cái gọi là Chỉ thị Z30 năm 1983. Gây ra bao tội ác và ấu trĩ đến thế nhưng không hiểu sao ông ta vẫn ngoi lên được ngôi vị Tổng Bí thư, mãi tới hơn 80 tuổi mới chịu rời bỏ “ngai vàng” để lui vào hậu trường sắm vai “thái thượng hoàng” chuyên “chọc ngoáy” và “giật dây” chính trị. Điều này cho thấy ông ta là một kẻ vô cùng nham hiểm, xảo quyệt, không từ một thủ đoạn bẩn thỉu nào (như chính các “đồng chí” của ông ta từng tố cáo). Bàn tay hắc ám của ông ta đã lũng đoạn chính trường Việt Nam ngay từ những năm 1980. Mới đây, tuy đã gần đất xa trời song ông vẫn quyết tỏ lòng nghĩa hiệp, ra tay cứu giúp bọn đàn em xã hội đen khát máu đang hăm he giết người.

Tôi e rằng việc các công ty Trung Quốc xuất hiện tại chiến trường bauxite Tây Nguyên là chuyện không hề ngẫu nhiên chút nào. Với một chủ trương tiềm ẩn nhiều hệ luỵ nghiêm trọng về môi trường, văn hoá, an ninh - quốc phòng... lẽ ra người ta cần phải thông qua Quốc hội, cho dù đấy có là Quốc hội bù nhìn đi chăng nữa.

Thực ra, chỉ cần loại bỏ bộ máy ăn bám (kiêm ăn hại) nào là của Đảng, của Uỷ ban MTTQ Việt Nam, của Đoàn Thanh niên CSHCM, của các cơ quan Đảng trong Quân đội, Công an... là đã có thể tăng đồng lương thực tế cho mỗi người trong bộ máy hành chính Nhà nước lên ít nhất 4 lần – một tiền đề quan trọng để chống tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan công quyền, mở đường cho sự phát triển bền vững của đất nước. Với những gánh nặng như vậy, thử hỏi Việt Nam làm sao có thể “cất cánh” để mà “hoá rồng” cho nổi?

Sau khi tôi tung bức thư lên mạng lần thứ nhất (ngày 21/4/2008), Công an Quảng Trị đã nhận được quyết định bắt vợ tôi do Bộ Công an gửi vào, nhưng rồi người ta đã không thực hiện quyết định đó vì vợ tôi đang mang thai và lại còn nuôi con nhỏ nữa.

Khoảng đầu tháng 7/2008, mẹ tôi điện thoại từ Hà Nội vào cho tôi biết chuyện hôm trước đấy có ba ông sỹ quan công an đến làm việc với bà. Họ còn nói với mẹ tôi là sẽ vào Đông Hà để “làm việc” với tôi. Lúc ấy tôi đã bảo ngay với mẹ tôi rằng người ta chỉ “rung cây doạ khỉ” thôi. Quả nhiên, sau đấy không hề thấy ai từ Hà Nội vào “làm việc” với tôi cả. Sau này tìm hiểu tôi mới được biết, ba tay công an kia chỉ là thuộc hạ của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải, chứ lúc ấy Bộ Công an không hề cử ai đến điều tra hay làm việc với mẹ tôi cả. Họ muốn đánh động để hù doạ tôi mà thôi.

Sau khi bán nhà vào Đông Hà, vợ chồng tôi mua một ngôi nhà để ở. Ngoài số tiền dôi dư, chúng tôi còn vay thêm ngân hàng để vợ tôi cho vay trả góp. Tuy nhiên, đến gần Tết Kỷ Sửu thì hầu hết số tiền vợ tôi cho vay đều không thu hồi lại được, những người vay tiền bị vỡ nợ do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Vợ chồng tôi buộc phải bán nhà cùng một số đồ đạc rồi về tạm tá túc ở nhà bà ngoại vợ.

Ngày 9/3/2009, khi đang ở thăm hai nước Qata và Kuwait, ông Dũng có điện thoại và nói với vợ tôi rằng “biết gì” ông sẽ “khai nấy.” Ông ta không dám nói gì hơn vì thừa biết là vợ tôi đang bị theo dõi. Tuy ông Dũng nói thế để trấn an vợ chồng tôi (rằng ông ta sẽ hợp tác với Ban Chuyên án) nhưng qua đó cũng cho thấy mức độ thành khẩn của ông ta (rõ ràng là ông ta không chỉ biết hết toàn bộ câu chuyện mà, với tư cách là người trong cuộc, ông ta còn biết nhiều hơn thế). Chắc chắn là Ban Chuyên án đã đề nghị ông Dũng liên lạc với vợ tôi, bởi trước khi gặp ông Dũng qua điện thoại, vợ tôi đã nói chuyện với ông Lê Hồng Anh – trong Thư Tố Cáo lần 2, tôi vẫn dành cho ông Dũng sự tôn trọng nhất định đồng thời gửi gắm nhiều hy vọng vào sự thành tâm của ông (người ta hy vọng tôi vì thế sẽ không tung thư lên mạng lần nữa).

Sau Tết Mậu Tý 2008 (thời điểm Trọng vừa thoát khỏi địa ngục trần gian ở Quảng Ninh và buộc ba ông kia phải xì ra 2 tỷ USD nữa để anh ta giao chứng cứ cho), ông Hải từng thú nhận khi vợ tôi khuyên ông ta hãy đi tu đi rằng “bố đã giết quá nhiều người rồi, có muốn tu cũng không được nữa.” Vợ cũ của Trọng mới đây cũng đã bị giết và chắc chắn thủ phạm không ai khác hơn là ông Hải. Về sau, Công an đã phát hiện ra nhiều băng nhóm tội phạm xã hội đen nằm dưới sự điều hành của ông ta. Công an cũng đã lấy mẫu máu của ông ta để xét nghiệm và kết quả cho thấy ông ta là một con nghiện ma tuý. (Dĩ nhiên là ông ta đã có một tiền sử sử dụng ma tuý lâu dài - trước đây ông ta từng có lần nói với vợ tôi là “số ma tuý của bố có dùng cả đời cũng không hết.”)

Lá cờ của Đảng giờ này vẫn đang bay phấp phới ngoài kia chính là nhờ đức hy sinh cao cả của bé. Máu của bé đã tô thắm cho lá cờ vẻ vang của Đảng nhưng oan hồn của bé thì chắc hãy còn lẩn khuất đâu đó ở mạn Đông Bắc của Tổ quốc. Than ôi, giá như ngày xưa người biết dằn lòng trước “một ham muốn, ham muốn tột bậc” của người thì ngày nay bé đâu cần phải hy sinh “một ham muốn, ham muốn tột bậc” của bé - được ngậm vào bầu sữa mẹ! Vì vậy, thiết nghĩ Đảng cũng nên mau làm lễ truy điệu và truy tặng danh hiệu cho bé rồi gửi xuống cho bé tấm hộ chiếu công vụ đặc biệt để bé lên đường sang Đức và Nga tìm “gặp Bác Hồ” cho thoả niềm “mơ” ước bấy lâu.
Tôi chỉ sợ rằng khi gặp được “Bác” trong bộ dạng khúm núm xun xoe bên cạnh “Cụ Karl Marx, Cụ Lenine” và không còn khoác trên mình bất kỳ một chiếc mặt nạ nào nữa, bé sẽ không khỏi ngỡ ngàng thốt lên: Hoá ra ngươi chính là tên dâm tặc đội lốt “già Thu” ở núi rừng Việt Bắc năm nao, mượn chiêu bài “giải phóng phụ nữ” để mở lời đường mật “câu kéo” cô sơn nữ ngây thơ Nông Thị Trưng hòng thoả mãn “ham muốn tột bậc” của mình rồi bỏ của chạy lấy người sau khi đã kịp để lại cho đời “tác phẩm” Nông Đức Mạnh, thằng con hoang vô đạo đã gây ra cái chết oan uổng cho ta; hoá ra ngươi chính là kẻ đã im lặng để cho đàn em ra tay tàn độc thủ tiêu một cô sơn nữ cũng không kém phần ngây thơ khác là Nông Thị Xuân, người không chỉ từng má ấp môi kề hầu thoả mãn “ham muốn tột bậc” của ngươi suốt bao lâu mà còn sinh con đẻ cái cho ngươi; hoá ra ngươi chính là kẻ đã “rước” thứ tà giáo mang tên Marx-Lenine về giày xéo non sông gấm vóc mà Tổ tiên của ngươi đã đổ bao xương máu gầy dựng, gây nên cuộc chiến nồi da xáo thịt khiến 3-4 triệu người bị thiệt mạng oan uổng, khiến hơn một triệu người buộc phải gạt nước mắt rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn trên những con thuyền mong manh giữa đại dương sóng gió trùng trùng để rồi một nửa trong số đó đã phải làm mồi cho cá trước khi đến được bến bờ của TỰ DO; hoá ra ngươi chính là kẻ đã gây ra cuộc tắm máu mang tên Cải cách Ruộng đất năm xưa, khiến hàng trăm ngàn người dân vô tội - mà hầu hết trong số đó đều thuộc về tầng lớp tinh hoa của dân tộc - bị giết hại một cách tàn bạo và đê hèn; hoá ra ngươi chính là kẻ đã đội lốt Trần Dân Tiên, tự viết sách phong cho mình là “Cha già Dân tộc,” tự bốc thơm mình đến tận mây xanh một cách vô liêm sỹ; hoá ra ngươi chính là kẻ có tầm “nhìn xa trông rộng” đến nỗi ngày 14/9/1958 đã chỉ thị cho đàn em ký Công hàm dâng Hoàng Sa - Trường Sa cho quan thầy của ngươi ở Bắc Kinh; hoá ra ngươi chính là kẻ đã “sáng suốt” rước kẻ thù truyền truyền kiếp của dân tộc vào nhà để đánh đuổi những người bạn của Tự do - Dân chủ, và nếu không có sự hiện diện trong khu vực của những kẻ mà năm xưa ngươi đòi “đánh cho cút” đi đó thì đến một chỗ cắm dùi ở Trường Sa cho Việt Nam giờ cũng không còn; hoá ra...; hoá ra... “Lòng nhân ái bao la” của ngươi ở đâu khi tiếng kêu khóc thảm thiết của hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội trong vụ Cải cách Ruộng đất “long trời lở đất” không chạm đến trái tim đen tối của ngươi? “Lòng nhân ái bao la” của ngươi ở đâu khi hàng trăm quan chức cao cấp từng sát cánh với ngươi bị bắt giam vô cớ rồi bị tra tấn và chịu tù đày oan uổng ngay trước mắt ngươi trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống Đảng”? Cuộc “Cách mạng Tháng Tám” của các ngươi chẳng qua cũng chỉ là một cuộc cách mạng lừa bịp bởi chỉ ít lâu sau khi đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để cướp chính quyền từ tay một chính phủ hợp pháp, ngươi và lũ đàn em của mình đã hiện nguyên hình là những tên độc tài khát máu khoác áo cộng sản, khủng bố các đảng phái đối lập một cách tàn độc và cuối cùng là ngang nhiên cướp đoạt các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay, ngươi vẫn một lòng một dạ ôm ấp “Cụ Karl Marx, Cụ Lenine” và tiếp tục lừa mị nhân dân. Ta không hiểu tại sao với những lời lẽ “khuôn vàng thước ngọc” kiểu như “Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng mà lũ đàn em cuồng tín vẫn cứ tung hê Di chúc của ngươi đến độ mà bản Hiến pháp năm 1789 của Mỹ hẳn cũng không khỏi phải chạnh lòng ghen tỵ. Chỉ cần mỗi câu ấy thôi là đủ để lột tả được não trạng của ngươi - não trạng của một tên [tay sai] thực dân đỏ - cũng như cái “hồn” của bản Di chúc, đồng thời vạch trần được bản chất của cái chế độ chính trị bất nhân do ngươi dựng lên. Chẳng có nơi nào trên thế gian này mà ở đó các “ông chủ” không chỉ phải oằn lưng đóng thuế nuôi lũ “đầy tớ” vô đạo mà còn phải “rất trung thành” với chúng nữa (!) Trong lúc con đẻ của ngươi thì lăn lóc hết tay người này qua tay người khác (để cho ngươi tiếp tục loè bịp thiên hạ) thế mà ngươi vẫn cứ trơ trẽn “gửi lời chào thân ái đến… các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.” Ngươi không sợ “các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế” đó sẽ nhổ vào bộ mặt đạo đức giả, vô liêm sỹ của ngươi hay sao? “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước,” lời người xưa nói có mấy khi sai bao giờ!

Một phản ứng tâm lý đôi khi xẩy ra với con tin bị bắt cóc, trong đó nạn nhân cho thấy dấu hiệu đồng cảm với kẻ bắt cóc mà không tính đến hoàn cảnh nguy hiểm hay rủi ro mà mình đang lâm phải.

Sau này, những ngày đầu mới trở về Việt Nam, vợ tôi vẫn bị hiện tượng giống như dân gian thường gọi là “giật kinh phong,” mỗi ngày ít nhất bị một lần như thế. Những khi lên cơn như vậy, cô ấy phải chạy vào giường rồi trùm chăn, ôm lấy đầu, ứa nước mắt ra vì đau đớn trong khi vẫn nghiến răng chịu đựng, không hề kêu la một tiếng (vì không muốn cho mọi người trong nhà biết). Một thời gian sau hiện tượng này mới dần dần chấm dứt.

Thời gian vợ chồng tôi ở khách sạn Hải Yến (282 Nguyễn Trãi, Hà Nội), ông Dũng có cho vợ tôi biết là trước đấy Trọng từng nói với ông rằng “nếu Phương mà không đi theo tôi thì tôi cũng sẽ làm cho vợ chồng nó không thể sống hạnh phúc với nhau được.”

Về chi tiết này thì mấy sỹ quan Công an trong Ban Chuyên án nói là chẳng qua Trinh sợ quá nên mới bịa ra để đổ tội cho ông Hải và Trọng thôi.

Ngày 1/4/2009, trang mạng của đài Châu Á Tự Do (RFA) đã đưa tin về sự kiện này nhưng sau đó đã cáo lỗi rằng đấy chỉ là trò đùa ngày Cá Tháng Tư  thôi (!). Thực ra, với những ai tỉnh táo thì chỉ cần đặt câu hỏi: “Liệu một đài phát thanh quốc tế như RFA lại có thể đùa được như thế hay sao?” là đã có thể tự rút ra câu trả lời cho mình rồi.

Sau khi tôi tung bức thư lên mạng lần thứ hai, ngày 19/3/2009, thông qua Uỷ viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc, ông Hồ Cẩm Đào đã mời ông Nguyễn Minh Triết “sang thăm Trung Quốc vào thời gian thích hợp.” Họ thừa biết ông Mạnh coi như đã rớt đài và quyền lực sẽ rơi vào tay ông Triết. (Trước đấy, ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, đã đến thăm và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 15 đến 20/3/2009.)
Sau đấy, Ban Tuyên giáo Trung ương mở cuộc thi Tìm hiểu Biển Đảo Việt Nam (bắt đầu từ ngày 1/4). Các tin tức về Hoàng Sa - Trường Sa bổng trở nên sốt dẻo và mạnh mẽ hơn bao giờ hết trên các trang báo Việt Nam. Vụ va chạm giữa tàu Mỹ Impeccable và nhiều tàu Trung Quốc trên Biển Đông hôm 8.3 cũng như việc Trung Quốc điều tàu Ngư Chính tuần tra trên Biển Đông chỉ là những sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi. (Ngày 10.3.2009, tàu Ngư chính 311 của Trung Quốc rời cầu cảng ở Quảng Châu đi đến Tam Á, tỉnh Hải Nam. Ngày 14.3.2009, tàu này tiếp tục rời cảng Tam Á để đi tới khu vực biển Hoàng Sa và Trường Sa làm nhiệm vụ tuần tiễu.)
Ngày 17/3, cuộc hội thảo đầu tiên về tranh chấp chủ quyền trên biển Đông đã được tổ chức ở Hà Nội.
Trong 2 ngày 20 và 21/3, tại Hải Phòng, Ban Bí thư Trung ương đã tổ chức “Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác tuyên truyền biển - đảo, phân giới - cắm mốc và thông tin đối ngoại năm 2008, triển khai nhiệm vụ năm 2009.”
Tóm lại, tất cả những diễn biến khác thường trên đây đều xuất phát từ thực tế là phe bảo thủ, phản động, thân Tàu do ông Mạnh cầm đầu đã bị giáng một đòn chí mạng. Đấy mới chính là nguyên nhân thực sự khiến trang mạng của đài RFA ngày 2/7/2009 phải đặt câu hỏi “Điều gì đang xẩy ra trong bang giao Việt – Trung?” Nếu ông Mạnh mà còn an vị thì cho dù Trung Quốc có tiếp tục giở thói côn đồ rồi bắn giết hàng loạt ngư dân Việt Nam trên Biển Đông đi chăng nữa, ông ta cũng chỉ biết giở ngón bài “tủ” duy nhất của mình là thành tâm chắp tay niệm câu thần chú gia truyền “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà thôi. Không chỉ có vậy, bây giờ thì hầu như ai cũng biết rằng chính ông ta là kẻ đã “rước” ông “bạn tốt” Trung Quốc vào Tây Nguyên, một khu vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về an ninh - quốc phòng, không chỉ đối với Việt Nam nói riêng mà còn đối với cả Đông Dương nói chung. Nếu không phải là kẻ rắp tâm bán nước cầu vinh thì điều này chỉ có thể lý giải bằng sự ngu dốt, thiển cận vô tiền khoáng hậu của một vị “lãnh đạo quốc gia” trong thời đại ngày nay. Với một kẻ đã bán linh hồn cho quỷ thì không có gì là không dám làm cả.

Chính các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án cũng nhận xét là “ông Dũng ngu!” Rõ ràng, nếu càng phạm nhiều tội lỗi mà vẫn dũng cảm thừa nhận thì sự dũng cảm đó lại càng đáng được ghi nhận, thậm chí đối với một chính trị gia lão luyện thì có thể qua đó chuyển bại thành thắng (ông Lê Hồng Anh là một minh chứng cụ thể trong câu chuyện này). Tiếc rằng ông Dũng đã không thể hiện được phẩm chất đó, ông mới chỉ dừng lại ở mức độ tự ăn năn mà thôi. Trong bức thư tố cáo lần 2 (từ đầu cho đến trước Phần Bổ Sung V này) tôi đã hết sức thiện ý khi trao cho ông một cơ hội lớn cuối cùng nhưng ông đã không biết nắm bắt, lúc nào cũng cứ nơm nớp sợ ông Hải như sợ cọp.

Các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án nhận xét rằng ông Mạnh là một kẻ “rất thâm hiểm và lươn lẹo.”
Lần vợ chồng tôi bỏ nhà ra khách sạn Công đoàn ở ngay giữa buổi trưa oi bức ngày 3/6/2007, bất chấp sức khoẻ của con gái, ông cậu vợ tôi rất tức giận và làm um sùm cả nhà. Tối hôm đó, vợ tôi gọi điện cho ông Mạnh (lúc này đang trong chuyến công du 4 nước thuộc Châu Mỹ Latin) biết chuyện. Ông đã “xúi” vợ chồng tôi đi taxi về nện cho ông cậu một trận. Lúc ấy tôi cứ nghĩ là chắc ông “bức xúc” thay cho chúng tôi thôi. May mà tôi đã không làm chuyện dại dột đó.
Thời gian vợ chồng tôi mới từ nơi ẩn náu tại nhà bà mợ vợ tôi ở thị xã Quảng Trị trở về Đông Hà ngày 29/6/2007, ông Mạnh đã bố trí để tay Việt kiều Trương Đức Hải từ Sài Gòn ra Đông Hà. Ông Mạnh nói là ông hết sạch tiền nên mượn 100 triệu VNĐ của Hải để đưa cho vợ chồng tôi. Tay Việt kiều này ra nghỉ tại khách sạn Đông Trường Sơn và bảo vợ tôi phải đến khách sạn rồi lên phòng anh ta một mình để lấy tiền. Anh ta nói là nếu vợ tôi chịu lên phòng nói chuyện một lúc thì anh ta sẽ đưa cho cô ấy cả một valy tiền. Tôi lúc ấy vẫn vô tư, không hề gợn chút “lăn tăn” nào cả, nhưng vợ tôi lại quyết không thèm đến. Anh ta đợi một hôm không được đành quay trở vào Sài Gòn. Sau này ngẫm lại tôi mới thấy đây quả là “diệu kế” của cặp bài trùng Nông Đức Mạnh – Hoàng Trung Hải. Nếu lần ấy vợ tôi mà hám tiền hoặc chỉ cần dễ dãi một chút thôi là chắc chắn đã rơi vào cái bẫy mà ông Mạnh và tay Hải Việt kiều kia đang giăng ra.
Ông Mạnh đã toan bài lừa dối vợ chồng tôi ngay từ khi chuyện ông Dũng bị ông Hải “trói” lộ ra. Chỉ ít ngày sau khi vợ tôi báo cho ông Mạnh biết việc ông Dũng vào Công ty Công trình Đô thị Quảng Trị của ông Bùi Đại Thắng để thuyết phục vợ tôi “hãy tạm thời đi theo bố một thời gian” (và sau đấy ông Dũng kể cho ông Mạnh biết chuyện ông đã bị ông Hải giăng bẫy như thế nào), ông Mạnh đã bịa ra với vợ tôi chuyện ông Dũng bị ông Hải quay phim ghi lại cảnh ông ta nhận hối lộ từ ông Hải - và nói đấy là bằng chứng phạm tội giúp ông Hải khống chế ông Dũng. (Ông ta dặn vợ tôi: “Con về kể với Hùng để nó biết, kẻo nó lại nghĩ này nghĩ nọ!” Tới thời điểm ấy, vợ tôi vẫn chưa cho tôi biết việc ông Dũng trước đấy từng khóc lóc sám hối với cô ấy chuyện ông ta say rượu và chơi gái trinh cùng với ông Hải để rồi sau đó ông Hải ra tay thủ tiêu cả hai cô gái nhằm bịt đầu mối.) Cho dù là có thể lúc đấy ông Mạnh không muốn tôi biết được sự thật quá kinh khủng kia của ông Dũng và ông Hải nhưng điều này ít nhiều cũng cho thấy ông ta là một kẻ thâm hiểm khó lường. Và khoảng cách từ đó cho đến việc ông ta nhẫn tâm bán đứng vợ chồng tôi sau đấy một thời gian chỉ là một bước chân ngắn nữa mà thôi. Ban đầu tôi cứ nghĩ ông ta thuộc dạng người đứng đắn với vẻ ngoại đạo mạo thế kia nên chắc chắn phải cần tới sự hiệp trợ của “quái kiệt” Hoàng Trung Hải mới đủ sức nặn ra những âm mưu bẩn thỉu hòng lường gạt vợ chồng tôi nhưng càng về sau tôi mới càng nhận ra bản chất quỷ quyệt và hiểm độc của “nhà cải cách ôn hoà” Nông Đức Mạnh – “danh hiệu cao quý” mà các quan thầy phương Bắc đã “phong tặng” cho tên tôi tớ trung thành và tận tuỵ này.

Đúng là “phú quý giật lùi.” Chứng kiến màn trình diễn trước máy quay phim cổ lỗ sỹ giữa núi rừng Việt Bắc năm xưa trong đó ghi lại hình ảnh vị “Cha già Dân tôc” tự phong của chúng ta vận xà lỏn vừa đi tới đi lui vừa hong quần áo cả ở trên đầu lẫn trên tay thì đến vua hài Charlie Chaplin sống lại hẳn cũng phải tôn “diễn viên” ngoại hạng này làm “sư phụ.”

Báo điện tử Vietnamnet đã tỏ ra nhanh nhạy khi chạy tít bài “Tôi mong lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn Lý Quang Diệu” trên trang Tuần Việt Nam vào đúng buổi sáng ngày khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ X, 29/6/2009. Nhưng cuối cùng hoá ra báo này cũng bị “việt vị.”

Các sỹ quan điều tra cho hay: Trinh khai rằng ngay sau khi tôi tung THƯ TỐ CÁO lên mạng lần thứ 2 (12/3/2009), ông Hải đã liên lạc với Trinh để mua số chứng cứ mà Trọng giao lại cho anh ta với cái giá 1 tỷ USD. Sau đó Trinh đã mang số chứng cứ này về Việt Nam và bàn giao cho ông Hải. Điều này càng chứng tỏ trong Ban Chuyên án (cũ) đã có kẻ bán linh hồn cho quỷ. Trinh còn khai là trước đấy chính ông Hải đã thuê anh ta giết Thuỷ. Công an đã bố trí cho Trinh đối chất với ông Hải và ông Mạnh.

Theo những gì tôi được biết, ngoài vợ chồng tôi và Trinh, ít nhất còn có một người nữa tố cáo chuyện ông Hải giết người. Nhân vật này tên là Đức, làm việc cho một tổ chức phi chính phủ (NGO) ở Đông Hà, Quảng Trị, trước đây từng nằm trong đường dây ma tuý của ông Hải và cũng đã từng “hợp tác” với vợ tôi một vài vụ (Đức chính là người đã lái xe đưa vợ tôi và ông Nguyễn Khánh Toàn vào Đà Nẵng dự Hội nghị của Vinatex hồi đầu năm 2006). Thời gian ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải mới xây nhà cho vợ chồng tôi ở Hà Nội (đầu năm 2006), Đức đã đứng ra quán xuyến và trông nom công việc xây dựng giúp ông Hải mấy tuần liền, vì anh ta giỏi tiếng Anh, có thể trao đổi với tốp thợ người Mỹ. Sau khi Công an tiến hành điều tra vụ việc, dường như nhận ra được bản chất tàn độc của ông Hải và để tránh kết cục bi thảm của nhiều thuộc hạ “thân tín” dưới tay ông ta, Đức đã hợp tác với Công an và tố cáo ông Hải là trùm ma tuý và giết người.

Theo tôi thì chỉ riêng việc bắt được Trinh ở Trung Quốc đã là một kỳ tích thực sự.

Không phải tôi nhận xét hồ đồ hay theo cảm tính gì đâu mà ngay chính các sỹ quan điều tra trong Ban Chuyên án cũng nhận định như vậy.

Tôi hoàn toàn không phải hồ đồ hay mơ mộng hão huyền gì về chuyện này đâu. Giữa tháng 4/2009, một nhóm sỹ quan Công an gồm 6 người đã từ Hà Nội vào nghỉ tại khách sạn Bảo Minh, nơi vợ tôi làm nhân viên phục vụ, để theo dõi và điều tra về vợ chồng tôi, đặc biệt là vợ tôi. Ngay trước khi ra Hà Nội, tối 21/4/2009, họ đã công khai lộ diện là những sỹ quan trong Ban Chuyên án khi tiếp chuyện với vợ tôi. Họ nói, “Chế độ này coi như đã sụp đổ rồi, tất cả những gì đang diễn ra hiện nay chỉ là một màn kịch để giữ thể diện và an ninh cho đất nước mà thôi.” Họ còn nhận xét tôi là “người dũng cảm, một mình mà lật đổ được cả một chế độ.” (Tôi thì chỉ mong người ta nhớ tới những nỗi đau mà vợ mình đã và đang phải nếm trải suốt bao năm qua thôi.) Chính ông Lê Hồng Anh và một số sỹ quan cao cấp khác trong Ban Chuyên án cũng từng cho vợ tôi biết điều này.

Với một thể chế chính trị mà pháp luật bị lũng đoạn và chỉ dành cho hạng dân đen thấp cổ bé họng như Việt Nam hiện nay, những kẻ có chức có quyền còn lạ gì ruột gan của nhau. Lòng vả cũng như lòng sung thôi.

(!!) Đây mới là căn nguyên thực sự đằng sau vụ bắt giữ luật sư Lê Công Định cùng một số đối tượng liên can khác. Vị luật sư trẻ tuổi chí lớn này xem ra chỉ là một con tốt trên bàn cờ chính trị hiện nay mà thôi. Và đây chính là một mũi tên trúng nhiều đích của Bộ Chính trị và của cá nhân ông Triết.
Đầu tiên, qua việc bắt giữ luật sư Lê Công Định, Bộ Chính trị và bản thân ông Triết muốn cho Trung Quốc thấy rằng dù ông Triết hay bất kỳ nhân vật nào lên thay ông Mạnh đi chăng nữa thì cũng không có gì thay đổi ở Việt Nam cả, qua đó để tránh bàn tay can thiệp thâm độc của Trung Quốc - người láng giềng phương Bắc vốn chỉ quen thói chờ chực lúc hàng xóm gặp cảnh tang tóc, hoả hoạn để giở trò ăn cướp. Con đường mà tay “Bợm già Dân tộc” Trần Dân Tiên** của chúng tôi đã chọn, chúng tôi sẽ cứ thế nhắm mắt mà đi như mấy chục năm qua thôi, các đồng chí chớ có lăn tăn gì cả. (**Nghề này thì lấy ông này tiên sư! Xin mạn phép mượn lời của đại thi hào Nguyễn Du ở đây vậy. Thực ra, làm “đĩ” thì cũng không nhất thiết cứ phải tuột quần ra đâu - nghề chơi hiện đại còn lắm điều hay hơn nhiều và cũng đáng ghê tởm hơn nhiều. Đang tâm gây ra cái chết thê thảm cho hàng trăm ngàn người dân vô tội rồi sụt sùi vài giọt nước mắt ra chiều “hối lỗi” và cuối cùng đâu lại vào đó - đấy chỉ có thể là loại “đĩ” mạt hạng đáng phỉ nhổ nhất Đông Tây kim cổ!)
Thứ hai, Bộ Chính trị cũng muốn phòng xa, “tiên hạ thủ vi cường,” sớm ra tay với một [số] đối thủ tiềm tàng ngõ hầu sau khi Hiến pháp mới được thông qua, Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới một diện mạo mới và tên gọi mới, sẽ tiếp tục nắm quyền, hạn chế thấp nhất những xáo trộn bất lợi cho họ.
Thứ ba, với động thái này, ông Triết muốn “ghi điểm” trong mắt những thành phần bảo thủ trong Đảng ngay trước thềm Hội nghị BCHTW lần thứ X, kỳ Hội nghị mà ông kỳ vọng là mình sẽ chính thức được nắm giữ vị trí của ông Mạnh để rộng đường thể hiện hoài bão của mình.
Thứ tư, chiến dịch bắt bớ này cũng giúp đánh lạc hướng dư luận khỏi cuộc chiến tranh giành quyền lực đang diễn ra rất gay gắt trong giới lãnh đạo chóp bu.
Dù sao, trong chốn lao tù lạnh lẽo, anh Định cũng chớ vội lấy thế làm buồn. Biết đâu, vai trò tốt thí của anh lại chẳng có lợi cho đất nước hơn là vào một ngày đẹp trời nào đó anh trở thành vị Tổng thống của nền cộng hoà non trẻ ở Việt Nam (tuy vậy, tôi vẫn ưa chế độ dân chủ như của Nhật, Anh hoặc Singapore hơn). Chí ít là thế cũng còn hơn đứt những “Tổng Mười” hay “Tổng Mạnh” v.v., những kẻ mà đến muôn đời sau vẫn còn bị người đời nguyền rủa. Tương lai và vinh dự thuộc về những người dũng cảm và ưu thời mẫn thế như anh chứ hoàn toàn không dành cho khối kẻ có chữ nghĩa vẫn cam tâm bẻ cong ngòi bút, khom lưng quỳ gối bợ đỡ cho bè đảng vô liêm sỹ đang ngày đêm kìm kẹp và gieo rắc tội ác cho nhân dân, những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng họ.

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18

Thư-viện bồ-đề online@ Trúc-Lâm Yên-Tử

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc-Lâm Yên-Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site