lịch sử việt nam
Phán Quyết của Liên Hiệp Quốc về bắt người tùy tiện tại Việt Nam
1, 2
10. Theo quan điểm của Nguồn đệ đơn, nội dung điều khoản này mơ hồ và không đưa ra tiêu chuẩn nào để phân biệt giữa những hành vi nguy hiểm cho nền an ninh quốc gia và những hoạt động thuộc lãnh vực cổ võ chính trị ôn hòa. Nguồn đệ đơn trưng dẫn bằng cớ rằng, trong thực tế, nhà cầm quyền xem việc tham gia bất cứ nhóm nào cổ võ cho dân chủ đa đảng đều là ‘âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân’. Theo Nguồn đệ đơn, cách thức áp dụng Điều 79 của Bộ Luật Hình Sự Việt Nam đang vi phạm Điều 25 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, và Điều 21 của bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Cả hai điều khoản này bảo đảm quyền tham gia vào các công việc quốc gia. Vì thế, Nguồn đệ đơn kết luận rằng việc bắt giữ, xét xử và kết án những Người thỉnh cầu là hệ quả trực tiếp của việc họ thực thi một cách ôn hòa quyền tham gia vào các công việc quốc gia.
11. Theo Nguồn đệ đơn, các hoạt động của những Người thỉnh cầu được đề cập trong cáo trạng của Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Bến Tre không hề đe dọa nền an ninh quốc gia của Việt Nam. Theo quan điểm của Nguồn đệ đơn, những hành động như “tham gia các khóa học đấu tranh bất bạo động tại Thái Lan và Cam Bốt”; “làm ra và phát tán những logo mang chữ ‘HS.TS.VN’, nghĩa là Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam”; và “tổ chức nông dân để phản đối tham nhũng” đều hoàn toàn nằm trong khuôn khổ của các quyền được bảo đảm bởi điều 12, 19 và 22 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị.
12. Hơn thế nữa, Nguồn đệ đơn đối chứng rằng việc giam giữ những Người thỉnh cầu mang tính tùy tiện vì nhà cầm quyền Việt Nam đã không tuân thủ những bảo đảm tối thiểu cho quyền được xét xử công bằng. Trừ trường hợp của ông Nguyễn Thành Tâm, tất cả những Người thỉnh cầu khác đều có luật sư bào chữa do gia đình chỉ định không lâu sau khi họ bị bắt. Tuy nhiên, nhà cầm quyền Việt Nam bị tố giác là đã ngăn chận những luật sư này, không cho gặp các thân chủ của họ trong suốt thời gian điều tra đến tận ngày 21 tháng Ba, 2011. Các luật sư chỉ có thể trao đổi ngắn ngủi với thân chủ một vài ngày trước buổi xử vào ngày 30 tháng Năm 2011. Tuần lễ trước khi xử, luật sư bào chữa vẫn không được nhận bản cáo trạng và những tài liệu cần thiết khác liên hệ đến vụ xử. Nguồn đệ đơn nhấn mạnh rằng những ngăn trở của nhà cầm quyền Việt Nam là sự vi phạm những quyền được bảo đảm trong Điều 14(3)(b) của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Điều này ghi rằng “mỗi người đều phải được quyền (....) có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị cho việc bào chữa và được liên lạc với luật sư do chính mình chọn”.
13. Ngoài ra nguồn đệ đơn còn viện dẫn Điều 58 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam quy định rằng luật sư bảo chữa có quyền tham gia mọi giai đoạn của tiến trình tố tụng hình sự; cũng như Điều 166 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam, quy định rằng Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can và luật sư bào chữa biết trong vòng 3 ngày khi có quyết định khởi tố và trao cho họ bản cáo trạng. Cũng theo Điều 166, luật sư bào chữa được đọc bản cáo trạng, ghi chép, và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án. Không có điều bảo đảm nào trên đây được tôn trọng trong vụ án này.
14. Nguồn đệ đơn tường trình rằng những Người thỉnh cầu bị kết án trong vòng một ngày xét xử kín. Hành động này vi phạm Điều 14(1) của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, Điều 11 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Điều 18 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. Theo thông tin nhận được, nhà cầm quyền Việt Nam đã ngăn chận không cho người thân trong gia đình của các bị can đến dự phiên tòa. Nguồn đệ đơn cho Ủy Ban biết rằng những người ủng hộ các bị cáo, bao gồm các thành viên Hội Thánh Mennonite và các dân oan khiếu kiện, đã bị công an xách nhiễu hoặc bị quản thúc tại gia trong những ngày trước buổi xử để ngăn cản họ không đến dự phiên tòa được. Nguồn đệ đơn còn tố giác rằng những người tụ tập trước Tòa Án Nhân Dân Bến Tre ngày 30 tháng Năm 2011 đã bị công an dùng vũ lực bắt đi. Theo các tố giác, nhân viên ngoại giao nước ngoài bị nhà cầm quyền Việt Nam từ chối không cho tham dự phiên tòa.
15. Theo nguồn đệ đơn, trong phiên xử một ngày đó, mỗi bị cáo phải ra trước tòa một mình, mặc dầu họ bị liệt kê trong cùng một cáo trạng và được Viện Kiểm Sát xem là thuộc về cùng một vụ án. Theo các tố giác, đây là cách để không cho các bị cáo biết nhiều về thủ tục tại tòa và gia tăng cảm giác cô đơn nơi các bị cáo.
16. Nguồn đệ đơn cho biết luật sư của Bà Trần và Ông Phạm bị kéo ra khỏi tòa án trong khi tranh cãi cho thân chủ, khiến cho các thân chủ này không có luật sư bào chữa trong thời gian còn lại của buổi xử. Theo nguồn đệ đơn, việc này xảy ra khi luật sư bào chữa lập luận rằng khẩu hiệu “HS.TS.VN” do “Việt Tân” cổ xúy không mang tính lật đổ chế độ như Viện kiểm sát cáo buộc, ngược lại nó có nghĩa là Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa) thuộc chủ quyền của Việt Nam.
17. Nguồn đệ đơn cho biết thêm, sau phiên tòa ngày 30 tháng Năm 2011, những Người thỉnh cầu cho đến nay bị cầm tù ở Trại Giam của Bộ Công An tại tỉnh Bến Tre và không được gặp gia đình và luật sư.
Trả lời từ phía Chính phủ
18. Trong lá thư đề ngày 24 tháng Sáu 2011, Ủy Ban đã cung cấp cho Chính phủ Việt Nam bản tóm tắt vụ khiếu nại và yêu cầu phía Chính phủ cung cấp những dữ kiện liên hệ đến các tố cáo. Ủy Ban lấy làm tiếc là phía Chính phủ đã không hồi đáp về vụ khiếu nại này do Ủy Ban đưa ra trong hạn định.
Thảo luận
19. Mặc dù thiếu thông tin từ phía Chính phủ, Ủy Ban tự thấy đã sẵn sàng để đưa ra phán quyết đối với việc giam giữ những Người thỉnh cầu, theo đúng đoạn 16 của bản Tu Chính Phương Pháp Làm Việc.
Những vi phạm thuộc loại II
20. Ủy Ban nhận xét rằng những Người thỉnh cầu đã bị bắt và kết án vì sự liên hệ của họ với “Việt Nam Reform Party”, một đảng đối lập ở Việt Nam, mà hoạt động của tổ chức này chú trọng tới việc tạo sức mạnh cho người dân Việt Nam trong việc mưu tìm công lý xã hội và bảo vệ quyền lợi của họ bằng những hành động đấu tranh dân sự bất bạo động.
21. Ủy Ban nhắc lại rằng quyền tự do nhập hội và quyền tham gia vào việc điều hành công việc chung được bảo vệ bởi Điều 22 và 25 của Công Ước Quốc Tế vế Quyền Dân Sự và Chính Trị. Việc tước đoạt những quyền tự do nêu trên của những Người thỉnh cầu, vì vậy, rơi vào loại II trong số những trường hợp tước đoạt tự do tùy tiện được đệ trình trước Ủy Ban.
22. Về những vi phạm luật lệ quốc gia mà nguồn đệ đơn đề cập, cụ thể là Điều 79 của bộ Luật Hình Sự Việt Nam, Ủy Ban nhắc lại trong những phán quyết trước đây số 1/2009 (Viet Nam) (UN Doc. A/HRC/13/30/Add.1,para.37.) và số 1/2003 (Viet Nam) (UN Doc. E/CN.4/2004/3/Add.1, para. 17) rằng, theo đúng nhiệm vụ được giao, Ủy Ban phải bảo đảm luật pháp quốc gia thuần nhất với những điều khoản quốc tế được nêu ra trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền hay những định chế luật pháp quốc tế liên hệ mà quốc gia đó đã đồng ý. Do đó, ngay cả nếu việc giam giữ là đúng với luật pháp quốc gia, Ủy Ban vẫn phải xem xét việc giam giữ này có phù hợp với những điều khoản luật pháp quốc tế liên hệ hay không. Vì không có dữ kiện gì cho thấy tính bạo động trong hoạt động của các Người thỉnh cầu, Ủy Ban kết luận việc giam giữ họ dựa theo Điều 79 của bộ Luật Hình Sự Việt Nam vi phạm các quyền và lãnh vực tự do của họ mà Công Uớc Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị và bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã thừa nhận.
Những vi phạm thuộc loại III
23. Trong vụ việc này, các bị cáo đã bị tước đoạt quyền được trao đổi với luật sư do họ tự chọn lựa trong giai đoạn trước phiên xử. Đó là vi phạm Điều 14(3)(b) của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị. Đồng thời luật sư của họ cũng không được xem xét hồ sơ của vụ án để chuẩn bị đầy đủ cho việc bào chữa.
24. Những Người thỉnh cầu đã bị tước đoạt quyền được xử công khai trước công chúng. Đó là vi phạm Điều 14(1) của Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị và những điều 11, 12 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Thực vậy, chính tính công khai của phiên xử mới bảo vệ người bị cáo không bị giới thực thi công lý lạm dụng quyền hành khi không có công luận chứng giám.
25. Ủy Ban nhận định rằng việc không tuân thủ những thông lệ quốc tế liên quan tới quyền được xét sử công bằng, đặt ra trong Điều 14 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị, đã trầm trọng đến mức có thể gọi việc tước đoạt tự do của những Người thỉnh cầu là tùy tiện.
Kết luận
26. Dựa trên những phần trên, Ủy Ban đưa ra phán quyết sau đây:
Việc tước đoạt tự do của các bà Trần (thị Thúy) và Phạm (ngọc Hoa), các ông Phạm (văn Thông), Dương (kim Khải), Cao (văn Tỉnh), Nguyễn Thanh Tâm, và Nguyễn Chí Thành là tùy tiện, vi phạm các điều 9, 10, 20, 21 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các điều 9, 14, 22, 25 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà Việt Nam là một thành viên. Những vi phạm này rơi vào loại II và III trong những thể loại được áp dụng khi xem xét những trường hợp được đệ nạp trước Ủy Ban.
27. Dựa trên Phán Quyết đã có, Ủy Ban yêu cầu chính phủ Việt Nam tiến hành những bước cần thiết đề sửa chữa tình trạng đối với các bà Trần và Phạm, các ông Phạm, Dương, Cao, Nguyễn Thanh Tâm, và Nguyễn Chí Thành cho đúng với các tiêu chuẩn và nguyên tắc được nêu ra trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị.
28. Ủy Ban tin rằng, sau khi xem xét mọi hoàn cảnh của vụ việc này, cách sửa chữa thỏa đáng là trả tự do cho những nhân vật trên và cung cấp cho họ quyền được bảo đảm đền bồi, theo Điều 9(5) của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị.
Thông qua ngày 2 tháng 9 năm 2011
1, 2
Thông Báo: Trang nhà Trúc-Lâm Yên-Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử