lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Trang Thơ Kita Kha

...

Trang Thơ Văn Mặc Khách

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Nhơn

...

Trang Thơ Văn Thanh Sơn

...

Trang Thơ Văn Vĩnh Nhất Tâm

...

Trang Thơ Văn Phạm Ngọc Thái

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Thị Thanh

...

Trang Thơ Văn Mai Hoài Thu

...

Văn Hóa Tộc Việt

...

Ủng Hộ Trúc Lâm Yên Tử - Donate

...

 

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

TQ: Mỹ Vào Trấn Biển Đông Vì Người Việt Tỵ Nạn Áp Lực

1, 2, 3

TQ: Mỹ Vào Trấn Biển Đông Vì Người Việt Tỵ Nạn Áp Lực; Vận Động Chính Trị Của Người Việt Ơ Mỹ Và Ảnh Hưởng Đối Với Tranh Chấp Biển Đông (Tạp chí "Quan hệ quốc tế hiện đại", Trung Quốc, số 6/2011)

...

Vận động hành lang chống lại Tổ quốc của họ trong giai đoạn này còn thể hiện ở chỗ có sự tranh luận quyết liệt, thậm chí sát hại nhau về việc Mỹ và Việt Nam có nên bình thường hoá quan hệ ngoại giao hay không? Những người Mỹ gốc Việt đề xướng bình thường hoá quan hệ ngoại giao hoặc thương mại Mỹ - Việt thường ở vào tình thế khó khăn. Chẳng hạn, tháng 8/1989, nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng Đoàn Văn Toại đã bị bắn chết[3] do viết bài kêu gọi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ; ngày 28/5/1984, vợ chồng Nguyễn Văn Luỹ và Phạm Thị Lưu [ở San Francisco, CA.- Ghi chú của NBT] là những người đề xuất mở rộng quan hệ thương mại với Việt Nam đã bị bắn, ông Luỹ chỉ bị thương còn bà Lưu thì chết. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhân lúc nền kinh tế Việt Nam bên bờ vực sụp đổ, nhiều người Việt ở Mỹ vẫn cho rằng không nên cứu chính quyền Đảng Cộng sản ở Hà Nội, trừ phi họ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.

Khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và người Việt ngày càng hội nhập vào xã hội Mỹ, việc vận động chính trị của người gốc Việt tại Mỹ cũng dần dần chuyển hướng. Đến năm 1995 đã bước sang giai đoạn thứ hai khi Việt Nam và Mỹ bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Họ một mặt không phản đối quan hệ Việt - Mỹ, đặc biệt là bình thường hoá quan hệthương mại, mặt khác vẫn đánh giá tiêu cực đối với thể chế chính trị, nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo trong nước Việt Nam. Tâm lý phức tạp này dẫn đến họ ủng hộ sự phát triển quan hệ Việt - Mỹ, ủng hộ sự phát triển trong nước của Việt Nam, nhưng mặt khác lại đòi chính phủ Mỹ có biện pháp cứng rắng buộc Việt Nam phải cải thiện tình hình chính trị, nhân quyền, tự do tôn giáo...

Mặc dù tự nhận là "dân tị nạn", nhưng những người Mỹ gốc Việt vẫn có tình cảm dân tộc mãnh liệt đối với quê hương. Nhiều người Việt mong muốn có thể quay trở lại Việt Nam sau khi nước này thực hiện dân chủ. Ví dụ, theo một điều tra dư luận người gốc Việt ở Quận Cam, 62% người được hỏi mong muốn quay lại Việt Nam sau khi nước này có tự do dân chủ. Xuất phát từ tình cảm đối với quê hương, mặc dù vẫn thường nhấn mạnh tình hình nội bộchính trị ở Việt Nam, người gốc Việt dần dần không còn phản đối bình thường hoá quan hệ ngoại giao, cũng như sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, do các nguyên nhân như khả năng kinh tế và ý thức tham gia chính trị, người gốc Việt vẫn chưa ảnh hưởng nhiều đến việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Họ tin rằng xây dựng quan hệ ngoại giao có thể làm cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước được tăng cường, nhưng nhất định phải buộc nhà cầm quyền Việt Nam trả giá chính trị tương ứng, đó là phải cải thiện vấn đề nhân quyền, tôn giáo, dân chủ ở Việt Nam. Chẳng hạn, Chủ tịch Hiệp hội tội phạm chính trị Việt Nam [tên đích-xác là "Hội Cựu-tù-nhân Chính-trị VN".- Ghi chú của NBT] ở bang Connecticut cho rằng nền kinh tế kế hoạch hoá nhất định phải cần đến giải pháp đồng bộ về dân chủ ở Việt Nam. Một ví dụ khác đó là người Việt đầu tiên là Hạ nghị sĩ [= Dân-biểu.- Ghi chú của NBT] Mỹ Joseph Cao đã thể hiện tâm lý phức tạp khi đến thăm Việt Nam năm 2010. Ông tỏ ra vui mừng trước sự phát triển của Việt Nam, cho rằng mặc dù Việt Nam và Mỹ có nhiều bất đồng, "nhưng không có nghĩa là hai nước không thể hợp tác.

Nhiều mong muốn của tôi không trùng hợp với chính phủ Việt Nam, nhưng tôi vẫn hy vọng hai nước có thể tiếp tục hợp tác".

Xuất phát từ sự quan tâm đối với quê hương, người Mỹ gốc Việt ủng hộ mạnh mẽ sự phát triển kinh tế trong nước. Hiện tượng này thể hiện rõ rệt nhất ở việc lượng kiều hối của Việt kiều tại Mỹ đều tập trung về Việt Nam và trở thành kênh quan hệ để Việt Nam giao lưu với Mỹ. Năm 1990, lượng kiều hối gửi về chỉ có 23 triệu USD, đến năm 1995 khi bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã tăng lên 285 triệu USD, gấp 12,4 lần. Tiếp đó, lượng kiều hối tiếp tục tăng nhanh chóng lên 5,5 tỷ USD vào năm 2007.[4] Để thúc đẩy lợi ích thương mại của Việt Nam tại Mỹ, đã có người kiến nghị Việt Nam nên tận dụng cơ chế vận động hành lang ở Mỹ, đặc biệt là thông qua lực lượng người Việt ở nước này.

Thượng nghị sĩ Jim Webb là người chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các cuộc vận động chính trị của người Việt, cho rằng: "Mặc dù Việt Nam và Mỹ có bất đồng trong các vấn đề như nhân quyền, tôn giáo, tự do, nhưng Mỹ có hơn 2 triệu người gốc Việt. Họ có thể làm cầu nối rất tốt giữa hai nước".

Dù vậy, người Việt tại Mỹ vẫn giữ thái độ tiêu cực đối với chế độ chính trị, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ thường yêu cầu chính phủ Mỹ khi trao cho Việt Nam lợi ích về kinh tế phải kèm theo điều kiện chính trị. Chẳng hạn, trước khi biểu quyết thông qua "Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn" (PNTR, tắt cho Permanent Normal Trade Relations.- Ghi chú của NBT] cho Việt Nam vào tháng 7/2006, trên tờ USA Today, hơn 50 tổchức của người Việt ở Mỹ bao gồm "Đồng minh dân chủ Việt Nam" [đích thực là "Liên-minh Dân-chủ VN".-Ghi chú của NBT], "Uỷ ban tự do tôn giáo Việt Nam", "Hội đồng nhân quyền Việt Nam" [có lẽ ý muốn nói "Mạng Lưới Nhân Quyền VN".-Ghi chú của NBT] đã công khai đăng bức thư gửi Tổng thống Bush và Quốc hội Mỹ, yêu cầu phía Mỹ quan tâm đến vấn đề nhân quyền, đưa ra những điều kiện tiên quyết cho PNTR, trong đó có thả tù nhân phạm tội về tôn giáo và chính trị, chấm dứt giam lỏng [chế-độ quản-chế.- Ghi chú của NBT], cho phép và thừa nhận các hội độc lập, thực sự tự do báo chí... Phần cuối của bức thư này kêu gọi: "Nếu chưa làm được những điều trên, đề nghị từ chối cấp PNTR cho chính quyền độc tài cộng sản Việt Nam". Đầu xuân năm 2007, do chính phủ Việt Nam bắt giữ một số nhân sĩ tôn giáo, do sự hối thúc của nhiều nhóm người Việt, Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao Mỹ đã công khai phê phán Chính phủ Việt Nam. Tổng thống [George W.] Bush và Phó Tổng thống [Dick] Cheney đã tổ chức cuộc gặp 45 phút với các tổ chức nhân quyền của người Việt ở Mỹ vào tháng 5/2007.[5] Hạ viện Mỹ đã thông qua nghị quyết lên án Việt Nam với tỷ lệ 404/404 phiếu thuận. Hạ nghị sĩ [= Dân-biểu] Earl Blumenauer thuộc Đảng Dân chủ, Trưởng ban liên lạc quốc hội Mỹ - Việt, cũng tuyên bố từ chức để phản đối việc làm của chính phủ Việt Nam. Trước khi Ngoại trưởng Hillary đến thăm Việt Nam vào tháng 7/2010, các Hạ nghị sĩ [= Dân-biểu] như Loretta Sanchez, Barbara Boxer, Mel Martinez... [đích thật hai vị sau này là Thượng-nghị-sĩ.- Ghi chú của NBT] đều yêu cầu Hillary nhắc nhở vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo với chính phủ Việt Nam - trên thực tế Hillary đã làm như vậy.

Người Việt ở Mỹ có tâm lý phức tạp đối với quê hương của họ. Điều này đã dẫn đến tranh cãi trong nhiều vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chẳng hạn, tháng 12/1998, một tiểu thương người Việt ở Little Saigon, Bang California [tên Trần Trường.- Ghi chú của NBT] đã treo tấm ảnh Hồ Chí Minh cỡ lớn và cờ đỏsao vàng Việt Nam tại cửa hàng của mình, dẫn đến hoạt động biểu tình quy mô lớn trong một thời gian dài. Cuộc biểu tình này kéo dài 4 tháng, lúc đông nhất có hơn 15.000 người tham gia, diễn ra 53 ngày tại riêng cửa hàng của ông này, những người biểu tình yêu cầu ông chủ cửa hàng hạ ảnh Hồ Chí Minh và quốc kỳ [VNCS.- Ghi chú của NBT] xuống. Nhưng ông ta nói đây là quyền tự do của ông và không chịu thực hiện. Ngoài ra, Tạp chí "Thời đại" [tức tờ TIME.- Ghi chú của NBT] đã đăng bài viết về Hồ Chí Minh, coi cụ Hồ là chiến sĩ đấu tranh cho tự do, từng bị cầm tù. "Đảng Dân chủ Việt Nam" ở Mỹ đã viết thư gửi tạp chí này để phản đối và đòi sửa lại bài viết trên.

Mặc dù hiện nay còn khó đưa ra kết luận, nhưng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008[6]dường như đã hé lộ tín hiệu thay đổi trong sự vận động chính trị của người Việt, bởi vì cơ cấu phiếu bầu của họ đã có dấu ấn thay đổi. Mặc dù nhìn chung sự ủng hộ của người Việt đối với Đảng Cộng hoà vẫn chưa thay đổi, nhưng đi sâu nghiên cứu sẽ phát hiện mạch ngầm phía sau: Một mặt, người Việt là nhóm dân tộc gốc Châu Á duy nhất ủng hộ John McCain, sự ủng hộ của họ đối với ông này cao gấp đôi so với Barack Obama. Mặt khác, số phiếu ủng hộ của người Việt trẻsinh ra ở Mỹ đối với Obama lại lên tới 69%, số phiếu bầu của những người Việt tuổi từ 18-29 cũng lên tới 60%. Mặc dù hai nhóm người Việt này chỉ là thiểu số (chiếm 15% và 25%), nhưng họ lại là nhóm người chủ yếu trong tương lai. Ngoài ra, tính chất đảng phái của người Việt cũng thay đổi: Người Việt trên 45 tuổi muốn tham gia tranh cử nhiều hơn, chủ yếu đăng ký là người của Đảng Cộng hoà. Ngược lại, nhiều người Việt dưới 45 tuổi lại muốn đi theo Đảng Dân chủ hoặc ứng cử viên độc lập, tỷ lệ tham gia tranh cử bằng một nửa so với nhóm trên 45 tuổi.

3. Việc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ với vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Đông)

Nhìn chung, do hạn chế bởi địa vị kinh tế và vai trò chính trị, ảnh hưởng của sự vận động chính trị của người Việt ở Mỹ không lớn, đặc biệt là so với người Mỹ gốc Do Thái hoặc gốc Cuba. Tuy nhiên, nếu xem xét từ góc độvấn đề Trung Quốc, quan hệ Trung - Mỹ, Trung - Việt, quan hệ Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, thì sự vận động chính trị của người gốc Việt khá quan trọng. Bởi vì, tuy họ còn thiếu tích cực và thiếu khả năng mở rộng vận động chính trị trong các vấn đề liên quan đến Việt Nam, nhưng họ lại là nhóm người vận động tích cực nhất trong các nhóm người gốc châu Á ở Mỹ về vấn đề Nam Hải và tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa Trung Quốc với Việt Nam. Ảnh hưởng của họ càng nổi bật hơn khi Mỹ can dự toàn diện vào tranh chấp Nam Hải năm 2010.

Người Việt ở Mỹ quan tâm đến vấn đề Nam Hải từ lâu. Ngày 19/4/1958 [Sai, lẽ ra phải là ngày 14/9/1958.- Ghi chú của NBT], Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công nhận Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là của Trung Quốc. Ngay vào thời điểm đó, những người Việt đang công tác tại Bộ Ngoại giao Mỹ đã nhanh chóng công bố cho người Việt ở Mỹ bản photo "Báo Nhân dân" [đích-xác phải là "báo Nhân Dân".- Ghi chú của NBT] của Việt Nam. Sự việc này ngay lập tức đã gây ra sự phản đối quyết liệt của người gốc Việt ở Mỹ, họ gọi hành động này của chính phủ Việt Nam là "bán nước". Sau này, vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành một vấn đề quan trọng của người Việt ở Mỹ.

Mặc dù nội bộ người gốc Việt có nhiều bất đồng lớn về thái độ đối với Việt Nam, nhưng [họ]đều nhất trí cao về việc "bảo vệ tài sản của tổ tiên để lại", không dâng cho Trung Quốc. Đúng như có học giả đã chi rõ: Về mặt bảo vệ "tài sản của tổ tiên", thái độ của người Việt ởnước ngoài là mạnh mẽ nhất. Đa số họ là kẻ lưu vong trong thập niên 70 của thế kỷ XX, tâm lý chống đối quyết liệt chính phủ Việt Nam. Họ không có cảm tình gì với lịch sử Trung Quốc giúp Việt Nam chiến thắng hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, giành được độc lập cho đất nước, giải phóng dân tộc. Họ vốn quen tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, luôn cao giọng nhất trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa, không những đòi chủ quyền đối với hai quần đảo này, họ còn đòi chủ quyền toàn bộ Nam Hải.

Trong những năm 1991-1993 sau Chiến tranh Lạnh, trong tình hình Mỹ đi đầu cấm vận đối với Trung Quốc, một số người Việt đã nhìn thấy cơ hội té nước theo mưa về vấn đề Nam Hải, cố sức xây dựng "Tổng Hội người Việt Nam ở nước ngoài" [đích-xác là "Tổng-Liên-Hội Người Việt Tự Do,"đã họp ở Canada và Washington, DC.- Ghi chú của NBT]. Sau khi nỗ lực đó bị thất bại, từ năm 1995-2000, họ đã bốn lần tổ chức hội nghị trù bị [có lẽ tác-giả muốn nói đến 4 lần Hội-nghị Liên-kết họp ởVirginia, Quận Cam, Milpitas Bắc-Cali, và Washington, DC.- Ghi chú của NBT], có ý đồ xây dựng một mặt trận dân tộc bảo vệ "quần đảo Trường Sa". Để phối hợp với tâm lý dân tộc ngày càng lên cao ở trong nước xung quanh vấn đề Trường Sa, họ đã lần lượt tổ chức hai lần "Đại hội bảo vệ lãnh thổ" [đích-xác là "Hội-nghị Diên Hồng hải-ngoại bảo-toàn lãnh-thổ".- Ghi chú của NBT] vào năm 2002 và 2005. Thậm chí, họ đã tổ chức biểu tình bên ngoài Lãnh sự quán Trung Quốc ở Houston. Đương nhiên, những tổ chức này cũng ủng hộ hành động ở trong nước phản đối chính phủ Việt Nam "bán nước", dâng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc, đặc biệt là ủng hộ những hoạt động nhiều lần biểu tình trái phép ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tổ chức người Việt ở Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối với chính sách của Mỹ về vấn đề Nam Hải là "Hiệp hội người Việt ở hải ngoại" (?). Tổ chức này đã vận động chính trị thông qua đề xuất chính sách một cách rộng rãi, cung cấp tiền cho các nghị sĩ tranh cử, gặp mặt các nghị sĩ và đã thu được hiệu quả khá rõ rệt... Ví dụ, tháng 11/2003, trong lúc diễn ra chuyến thăm Mỹ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà, tổ chức này đã gửi một kiến nghị cho Bộ Ngoại giao Mỹ,[7] hoan nghênh sự phát triển tích cực của quan hệ Việt - Mỹ. Tuy nhiên, họ cho rằng phải quan tâm toàn diện: Về lý luận, tính chất của hai chính quyền vẫn khác biệt về bản chất, Việt Nam vẫn là một quốc gia một đảng chuyên chế; hai nước vẫn còn tồn tại bất đồng lớn trong các vấn đề như nhân quyền, tự do tôn giáo, quyền chính trị của công dân... Bản kiến nghị ấy cũng cho rằng mục đích chuyến thăm của Phạm Văn Trà phần nhiều không phải là phát triển quan hệ song phương mà là phối hợp kiềm chế Trung Quốc.

Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương thuộc Uỷ ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ đã từng trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ là bạn bè tự nhiên. Việt Nam có ý nghĩa chiến lược đối với Mỹ, sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Chính sách ngoại giao cân bằng nước lớn của Việt Nam hết sức quan trọng đối với việc tăng cường quan hệ Việt - Mỹ, cũng hết sức quan trọng đối với việc ổn định khu vực Đông Nam Á và Nam Hải. Tháng 7/2009, Jim Webb đã chủ trì một cuộc điều trần về "Vấn đề chủ quyền và tranh chấp trên biển ở Đông Á". Bài phát biểu của ông ta đã ảnh hưởng rõ rệt đến những người Việt ở Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Trung Quốc bắt giữ các ngư dân Việt Nam, ông nói: "Những tranh chấp này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia khác trong khu vực, chỉ Mỹ mới có đủ khả năng và biện pháp chống lại sự mất cân bằng sức mạnh do Trung Quốc gây ra. Nếu Mỹ muốn duy trì sự cân bằng địa chính trị trong khu vực, bảo đảm sự công bằng cho tất cả các quốc gia, bảo vệtiếng nói của những quốc gia muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thì Mỹ phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ này". Sau một tháng, trong thời gian thăm Việt Nam, Jim Webb một lần nữa nhấn mạnh Mỹ phải giúp Việt Namđối trọng với Trung Quốc".

Năm 2009 là năm người Việt ở Mỹ vận động chính trị tích cực nhất xung quanh vấn đề Nam Hải. Điều này ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải năm 2010. Tháng 4/2009, các tổ chức như "Đại hội toàn quốc người Việt" [tức Nghị-hội.- Ghi chú của NBT], "Tiếng nói người Mỹ gốc Việt" ["Voice of Vietnamese Americans" trong tiếng Anh.- Ghi chú của NBT], đã gặp Jim Webb và bày tỏ quan điểm của họ đối với vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa [tức Trường Sa.- Ghi chú của NBT], đồng thời yêu cầu ông ta hãy lên tiếng thay cho Việt Nam. Tháng 7/2009, khi Đại sứ Mỹ ở Việt Nam Michael Michalak về Mỹ công tác, những người thuộc các tổ chức trên cũng đã đến gặp ông này. Khi đề cập đến vấn đềNam Hải, ông nói: "Mỹ không thể đứng về bên nào", mà sẽ theo đuổi một "phương pháp giải quyết mang tính khu vực".

Tháng 12/2009, "Đại hội toàn quốc người gốc Việt" [= Nghị-hội] và một số tổ chức của người Việt khác đã gặp 6 nghị sĩ Đảng Dân chủ trong quốc hội (bao gồm Sam Brownback, Chris Smith, Ed Royce, Zoe Lofgren, Frank Wolf, Mike Honda).[8] Mặc dù mục đích chính của cuộc gặp là thảo luận vấn đề nhân quyền của Việt Nam, nhưng cũng thảo luận về vấn đề tranh chấp Nam Hải. Tháng 6/2010, "Đại hội toàn quốc người Việt" [= Nghị-hội] một lần nữa cử đại diện đến vận động chính trị ở quốc hội, gặp gỡ 6 nghị sĩ trên và Uỷ ban đối ngoại của Thượng viện Mỹ. Sứ mệnh chủ yếu của cuộc gặp này là để hoàn chỉnh "phương án giải quyết vấn đề Nam Hải". Nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Thống nhất tên gọi quốc tế khu vực Nam Hải là "Biển Đông Nam Á"[9] để thuận lợi hơn khi thảo luận vấn đề này; (2) Tổ chức một cuộc thảo luận giữa các học giả quốc tế và Việt Nam, thống nhất quan điểm, lập trường và chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông; (3) Tổ chức hội nghị quốc tế bao gồm các đại diện của các nước có lợi ích ở Biển Đông - trừ Trung Quốc, để cùng "ngăn chặn hành động bá quyền của Trung Quốc" ở khu vực này; địa điểm tổ chức hội nghị có thể lựa chọn Đông Nam Á hoặc Nhật Bản. Sau khi lắng nghe phương án này, hai thượng nghị sĩ là thành viên chủ yếu của Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Mỹ đã ủng hộ nhiệt tình. Họnói: "Các nước Đông Nam Á đều yêu cầu Mỹ đứng về phía họ... Tuy nhiên, điều này làm cho chúng ta không thể đứng về bên nào. Có được một phương án toàn diện như các ngài nêu ra thì Mỹ mới có thể sẵn sàng ủng hộ".

1, 2, 3

pay per click advertising

Weblinks :

 

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

 

 

free counters

Search: The Web    http://www.truclamyentu.info
un compteur pour votre site