lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Trang Thơ Kita Kha

...

Trang Thơ Văn Mặc Khách

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Nhơn

...

Trang Thơ Văn Thanh Sơn

...

Trang Thơ Văn Vĩnh Nhất Tâm

...

Trang Thơ Văn Phạm Ngọc Thái

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Thị Thanh

...

Văn Hóa Tộc Việt

...

Ủng Hộ Trúc Lâm Yên Tử - Donate

...

 

Tin Tức Thời Sự - Lịch Sử Việt Nam

Cải Cách Toàn Diện Để Phát Triển Đất Nước

1, 2, 3, 4, 5

...

Về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo đặc biệt về Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Tuyên cáo này vừa để làm rõ quan điểm của Việt Nam trước dư luận quốc tế, vừa xóa bỏ những ngờ vực của không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, góp phần tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.

Cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc chống lại tuyên bố “Đường Lưỡi Bò” của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam đưa ra đề án với ASEAN đặt tên vùng biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.

Trước bước ngoặt lịch sử của đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam mang một trách nhiệm nặng nề đối với tiền đồ dân tộc. Chúng tôi mong thấy một cuộc cách mạng mới về thể chế để Việt Nam có thể phát triển thành một nước giàu mạnh và tự chủ.

A. Mở đầu

Việt Nam chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế và trên cục diện chính trị của khu vực và thế giới? Đất nước chúng ta sẽ thụt lùi về nhiều mặt, hay là sẽ phát triển mạnh mẽ, bền vững, đáp ứng khát vọng của dân tộc là mong thấy một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển hài hòa với thiên nhiên và xã hội, chia sẻ được những giá trị phổ quát của thế giới văn minh và giữ vững độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa? Nền tảng xã hội, văn hóa, giáo dục và thể chế của ta hiện nay có tạo đủ những điều kiện cơ bản để đất nước phát triển theo hướng tích cực không?

Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu khi thử trả lời những câu hỏi nêu trên.

Từ gần 20 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu phát triển đất nước là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là mục tiêu đúng đắn, có giá trị phổ quát và nước nào cũng muốn nhắm tới. Thế nhưng, hiện thực cho thấy Việt Nam không luôn tiến được theo hướng đó, nếu không nói là trên nhiều mặt Việt Nam đã đi ngược lại. Một bộ phận nhỏ giàu một cách bất hợp pháp, sinh hoạt xa hoa trong khi đa số dân chúng hằng ngày phải vật lộn với cơm áo, với chi phí cho giáo dục, y tế trong cơn lạm phát. Tham nhũng ngày càng trầm trọng, len lách vào mọi ngõ ngách của xã hội làm ảnh hưởng đến ý chí phấn đấu, tinh thần hướng thượng của người dân, và ngày càng có nhiều trường hợp công chức làm mất thể diện quốc gia. Bộ máy công quyền ở các cấp nổi lên quá nhiều người thiếu cả tài lẫn đức đến nỗi một lãnh đạo cấp cao của Đảng phải thừa nhận là bây giờ có quá nhiều “sâu”. Do tham nhũng, thiếu người tài đức gánh vác việc nước nên bộ máy nhà nước có nhiều bất cập. Tiếng nói của trí thức, của các nhà báo chân chính ngày càng mất hiệu quả. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng, bắt đầu lan tràn vào cả trong học đường, trong viện nghiên cứu khoa học, là những nơi lẽ ra phải đi đầu về đạo đức.

Năm 1996 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chủ trương phấn đấu làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Từ đó đến nay đã 15 năm, đã đi gần 2/3 đoạn đường dự định mà cái đích còn quá xa vời. Việt Nam chưa có được một ngành công nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Chúng ta chủ yếu vẫn còn xuất khẩu hàng công nghiệp gia công, dùng nhiều lao động giản đơn và tùy thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu. Doanh nghiệp nhà nước nhất là tập đoàn kinh tế được dành mọi ưu đãi về vốn và đất nhưng cho đến nay chẳng những không đóng được vai trò chủ đạo như nhà nước chủ trương mà còn gây ra gánh nặng nợ nần và bất ổn cho toàn nền kinh tế.

Nền kinh tế yếu cùng với bộ máy nhà nước nhiều bất cập đã đưa đến một hậu quả nghiêm trọng là Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Về kinh tế thì đã quá rõ: Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Doanh nghiệp Trung Quốc chiếm phần lớn các gói thầu xây dựng, mua quyền sử dụng lâu dài rừng và bờ biển Việt Nam, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức - kể cả bất hợp pháp - và nhiều nơi hình thành cộng đồng người Hoa mới... Về chính trị và tư tưởng, tuy không rõ ràng và dễ nhận biết như trong kinh tế, nhưng sự phụ thuộc là có. Cũng vì gắn bó với Trung Quốc về ý thức hệ, về thể chế chính trị mà ta không triển khai được đường lối ngoại giao khôn ngoan hiệu quả, không tận dụng được sức mạnh thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh. Chẳng những thế, lệ thuộc về kinh tế và ngoại giao sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất chủ quyền. Điều này đưa đến một thực tế nghiêm trọng: An ninh quốc gia bị đe dọa!

Từ tháng 5 năm nay (2011), vấn đề biển Đông trở nên nổi cộm. Ảnh hưởng của Trung Quốc đến an ninh của ta đã thấy rõ. Thật ra, chuyện Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông lần này không đáng lo bằng sự thâm nhập của họ ngày càng mạnh và sâu vào kinh tế, chính trị và văn hóa của ta. Khi kinh tế ta yếu, bộ máy nhà nước yếu, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, Trung Quốc có thể thực hiện được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc toàn diện vào họ.

Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, vô cùng lo lắng, bức xúc trước nguy cơ Việt Nam bị thụt lùi trong tiến trình phát triển của thế giới mà hậu quả là Việt Nam có thể mất độc lập và tự chủ dưới hình thức này hay hình thức khác. Để tránh nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam, với trọng trách đối với tiền đồ của đất nước, cần cải cách và triệt để đổi mới thể chế, nhằm củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, tận dụng thời cơ quốc tế, để mở ra con đường phát triển mới cho đất nước. Những nhận định về thực trạng và đề nghị cải cách dưới đây là xuất phát từ bức xúc về nguy cơ hiện nay đối với Việt Nam và ước vọng của chúng tôi về một nước Việt Nam thực sự giàu mạnh, văn minh và tự chủ. Chúng tôi tin rằng, đây cũng chính là ước vọng của toàn dân Việt Nam nói chung.

B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài

Nhìn kinh tế thế giới trong nửa thế kỷ gần đây ta thấy nhiều nước, nhất là những nước ở châu Á, đã phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước, thậm chí có nước đã tiến lên ngang hàng với các nước tiên tiến. Có mấy khi chúng ta xét xem một cách khách quan, nghiêm túc những yếu tố cơ bản, những đặc trưng chung nhất làm cho các nước ấy thành công? Cho đến nay, Việt Nam có nghiên cứu kinh nghiệm các nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục..., tức là những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như không được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nghiên cứu nhưng không được thực thi, áp dụng.

Ta thử lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ: Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành công trong giai đoạn phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất ngắn. Quá trình công nghiệp hóa của nước này bắt đầu từ năm 1961 nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đáng kể trên thế giới và đến năm 1996 được kết nạp vào Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là tổ chức của các nước tiên tiến. Từ một nước nhận viện trợ nhiều vào các thập niên 1960 và 1970, Hàn Quốc bắt đầu chuyển sang vị trí của nước đi viện trợ từ cuối thập niên 1980. Hiện nay, nhiều công ty của Hàn Quốc trong các ngành công nghệ cao như điện tử, xe hơi đã vươn lên hàng đầu thế giới.

Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về sự thành công của Hàn Quốc ta có thể nêu lên mấy nguyên nhân chính. Thứ nhất là tố chất của người lãnh đạo. Đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ cũng là những người thức thời, biết học hỏi ở đâu, tham khảo thể chế, cơ chế nào và du nhập công nghệ gì để phát triển nhanh. Và họ cũng biết rằng để xây dựng chiến lược phát triển trên cơ sở hiểu rõ nội lực và ngoại lực không thể không dựa vào người tài thật sự. Bởi vậy, chung quanh lãnh đạo toàn người tài giỏi, nhất là nhiều người đã du học và làm việc ở các nước tiên tiến. Thứ hai, với ý thức rằng bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao mới vạch ra được các chính sách cụ thể và thực thi có hiệu quả các chính sách ấy, Hàn Quốc từ rất sớm đã có cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để có được đội ngũ quan chức tài giỏi, mang trong mình sứ mệnh lo việc nước. Thứ ba, trong quá trình phát triển, Hàn Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước yểm trợ để doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới nhưng có cơ chế để doanh nghiệp không ỷ lại vào nhà nước như buộc doanh nghiệp phải có thành quả xuất khẩu mới tiếp tục được hỗ trợ. Thứ tư, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ được quan tâm hàng đầu. Vào giữa thập niên 1980, nghĩa là chỉ sau khoảng 25 năm từ khi bắt đầu quá trình phát triển, Hàn Quốc đã có những đại học, những viện nghiên cứu đạt chất lượng thuộc đẳng cấp quốc tế.

Những đặc trưng trên hầu như xuyên suốt trong quá trình phát triển, kể cả giai đoạn đầu, dưới thể chế độc tài chính trị (1961-1987). Hàn Quốc không phải không có tham nhũng, nhưng không tràn lan trong xã hội mà chỉ giới hạn ở một vài chính trị gia và một số ít tập đoàn kinh tế. Đặc biệt hầu như không có hiện tượng bòn rút của công, rút ruột công trình xây dựng, càng không dám lạm dụng, lãng phí tiền viện trợ.

Trong 50 năm qua, những nền kinh tế khác tại châu Á phát triển nhanh trong thời gian dài như Đài Loan, Malaysia, Thái Lan cũng đều có những đặc trưng giống Hàn Quốc, tuy nội dung chi tiết có khác và thành quả ít ấn tượng hơn.

Bây giờ nhìn lại trường hợp Việt Nam. Năm 2008, lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả khiêm tốn đó. Mặt khác, cơ chế, chính sách trong thời gian qua, đặc biệt trong 4-5 năm gần đây, đã làm cho kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư giảm và kéo theo lạm phát, lãng phí. Chất lượng phát triển cũng giảm nghiêm trọng: môi trường xuống cấp, phân hóa giàu nghèo tăng nhanh. Từ thành quả khiêm tốn và chất lượng phát triển thấp này, liệu từ nay Việt Nam có thể bắt đầu giai đoạn phát triển bền vững và kéo dài trong nhiều thập niên để thực sự có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, có vị trí xứng đáng trong khu vực châu Á và trên thế giới?

Cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, tính theo giá năm 2009, thu nhập đầu người 4.000 USD là cái mốc của nước thu nhập trung bình cao và 12.000 USD là mốc vượt lên hàng các nước thu nhập cao. Ở châu Á, Hàn Quốc từ một nước nghèo đã vươn lên hàng các nước thu nhập cao chỉ trong 4 thập niên (thu nhập đầu người năm 2009 là 17.000 USD). Malaysia (7.000 USD) và Thái Lan (4.000 USD) đang nỗ lực tạo điều kiện để trở thành nước tiên tiến, có thu nhập cao trong vòng hai thập niên tới.

Chỉ kể từ thời kỳ sau đổi mới, Việt Nam đã nhận viện trợ gần 20 năm rồi mà chưa thấy lãnh đạo Việt Nam đưa ra kế hoạch tới bao giờ sẽ không còn nhận viện trợ. Ngược lại, ở Hội nghị các nhà tài trợ mới đây, chính phủ còn nhấn mạnh Việt Nam vẫn là nước nghèo, cần thế giới tiếp tục quan tâm, giúp đỡ! Sang Seoul gặp sinh viên ta đang du học ở đấy sẽ nghe họ buồn rầu nói về hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong khoảng 95.000 người Việt Nam tại đây thì 60.000 là lao động xuất khẩu và 30.000 là phụ nữ sang lấy chồng vì lý do kinh tế. Vậy thì hình ảnh Việt Nam ở đây làm sao tốt được? Trí thức nước ngoài hiện nay khi nói về Việt Nam ít có ai lạc quan về tương lai kinh tế nước ta. Đó là họ mới chỉ thấy tình trạng tham nhũng, trình độ của quan chức mà họ tiếp xúc và những chính sách bất cập mà họ thấy được.

Phân tích trong phần tiếp theo cho thấy thực trạng đáng lo ngại về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học & công nghệ và đối ngoại, cũng như những nguyên nhân chính đã đưa đến trình trạng đó.

C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân

Phân tích hiện trạng Việt Nam, chúng tôi thấy có quá nhiều vấn đề đang làm cho nền tảng xã hội bị lung lay, đất nước suy yếu. Hầu hết những vấn đề đó bắt nguồn từ thể chế và cơ chế.

1. Về kinh tế

Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu vẫn là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu. Từ năm 2002 nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh và gần đây khuynh hướng này càng mạnh hơn. Nhập siêu quá lớn đang gây ra bất ổn vĩ mô.

Trong 5 năm qua, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đi theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường. Kết quả là Việt Nam đã vô tình xây dựng và củng cố một nền kinh tế tư bản hoang dã phục vụ các nhóm lợi ích (nhất là các tập đoàn kinh tế), phá hoại tài nguyên thiên nhiên, bòn rút của công làm giàu cho cá nhân trong khi lao động chân chính phải khổ sở với đồng lương thấp trước sự leo thang của vật giá.

Từ năm 2006 Việt Nam cho phép lập các tập đoàn kinh tế nhưng không đi kèm quy định giám sát cần thiết cũng như điều kiện buộc phải xác lập hệ thống quản lý doanh nghiệp, minh định rõ trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo công ty. Điều này đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng, trở thành một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự đổ vỡ của Vinashin cho thấy bản chất của các tập đoàn kinh tế.

Chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát huy được sức sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho những người có chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất nước để làm giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai thác ở những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng. Luật Đất đai coi đất đai là sở hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định nhằm mục đích “phát triển kinh tế”. Đây chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát triển công nghiệp, sân gôn, hay xây nhà kinh doanh. Do được phân quyền, nhiều địa phương giao đất rừng, hầm mỏ cho công ty Trung Quốc khai thác trong 50 năm, kể cả những vùng nhạy cảm về an ninh mà trung ương không biết. Ngoài ra, tình trạng thu hồi đất có tính cách cưỡng chế đã giải thích tại sao có quá nhiều vụ dân oan liên quan đến đất đai.

Chính sách phân quyền hoàn toàn hợp lý để tạo sự chủ động, sáng tạo cũng như nhằm giải quyết các vấn đề riêng của địa phương, kể cả tạo cạnh tranh giữa địa phương này và địa phương khác. Nhưng thực tế các yếu tố tích cực đó đã không phát huy tác dụng, ngược lại chỉ làm nảy sinh các mặt tiêu cực. Tại sao như vậy? Đó là do năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm của nhiều lãnh đạo địa phương như sẽ nói dưới đây.

Quy hoạch phát triển cũng là vấn đề đáng lo ngại của ta. Nhìn chung, cho đến nay quy hoạch nặng tính chất áp đặt, nóng vội, duy ý chí, thiếu thiết kế tổng thể và nhiều khi thiếu tính chuyên nghiệp. Những yếu kém này thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Trong phát triển đô thị thì đó là việc quy hoạch vội vã, thiếu khoa học dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông liên tục và kéo dài, ngập úng do mưa, đào đường, đắp đường, chắn lô cốt ... ở khắp mọi nơi. Trong đầu tư thì đó là tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả như việc đầu tư trong nhiều dự án về kết cấu hạ tầng, về nhiều dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ kém hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển yếu kém dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên cạn kiệt, ồ ạt, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính đến hiệu quả lâu dài; không xét đầy đủ đến tất cả các khía cạnh liên quan đến hiệu quả kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Nhiều cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Điển hình của việc này là nhiều dòng sông đã và đang bị các công ty đua nhau “bức tử”. Nguồn nước sinh hoạt, nước trong các ao hồ từ các thành phố lớn đến nông thôn cũng bị ô nhiễm ở rất nhiều nơi. Chính do ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, ở nhiều vùng đã xuất hiện những “làng ung thư”. Điều này gióng lên hồi chuông cảnh báo cấp bách và đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường và chất lượng nguồn nước. Ngoài ra, ô nhiễm không khí cũng ở trạng thái báo động và ô nhiễm ở các làng nghề cũng ở mức nguy hiểm.

Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quy hoạch, do khả năng hạn chế của chính quyền địa phương, và không loại trừ những toan tính tư lợi hoặc lợi ích cục bộ của những người có trách nhiệm.

Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh tế như hiện nay? Chúng tôi cho là có ba nguyên nhân sâu xa.

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì phương châm xây dựng “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó chủ trương vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, của kinh tế nhà nước. Từ khi có phương châm này (1991), do sự thuyết phục của những người có tư tưởng cải cách, nội dung có thay đổi một phần nhưng cái cốt lõi vẫn giữ nguyên mà hiện thân của nó là các tập đoàn kinh tế do nhà nước lập ra. Nhiều tập đoàn kết nối với một số lãnh đạo làm thành những nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế. Khi có sai phạm các lãnh đạo đó bám theo phương châm nói trên của Đảng để trốn trách nhiệm.

Thứ hai, trong cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân không rõ ràng và thiếu động cơ để quan chức, lãnh đạo các bộ phấn đấu để bộ mình giải quyết các vấn đề lớn của đất nước. Ngược lại, ta thấy nhiều trường hợp họ chạy theo những hoạt động ngoài công việc mình phụ trách, lãng phí thì giờ và công quỹ. Có bộ trưởng phụ trách kinh tế trong lúc kinh tế khủng hoảng lại dành thời gian hướng dẫn nghiên cứu sinh viết luận án tiến sĩ, vốn là việc của giáo sư đại học. Có cục trưởng phụ trách vấn đề giá cả trong lúc lạm phát người dân khốn đốn lại bỏ đi đóng phim! Suốt trong hơn 10 năm qua, ai cũng thấy rõ công nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, hàng hóa của Trung Quốc ào ạt tràn vào nước ta, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phát triển được, v.v. Cũng đã có rất nhiều đề án, chiến lược được trí thức trong và ngoài nước đưa ra, kể cả phân tích của học giả nước ngoài và các cơ quan quốc tế, nhưng tất cả đều bị xếp lại, không được chuyển thành chính sách để thực hiện.

Thứ ba, một phần liên quan đến vấn đề thứ hai vừa đề cập, trình độ, năng lực, tư cách của rất nhiều quan chức các cấp ở trung ương và địa phương không đạt yêu cầu. Rất tiếc chúng ta chưa chứng kiến những hình tượng lý tưởng của nhà cầm quyền “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, còn người ngược lại thì quá nhiều. Trong cơn bão giá làm dân chúng điêu đứng mà trách nhiệm chính ở những bộ liên quan, nhưng tiền mua xe hơi của quan chức cao cấp được tăng lên và được giải thích đó là chính sách đối phó với giá cả leo thang! Thí dụ tương tự về sự vô cảm, vô trách nhiệm của quan chức thì quá nhiều. Hậu quả tiêu cực của chính sách phân quyền đã nói phần lớn là do trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và tư chất đạo đức của các chức trách địa phương. Chúng ta nghe nhiều về các hiện tượng tiêu cực ở địa phương hơn là những điển hình tiên tiến, ít thấy những lãnh đạo dấn thân vì dân giàu nước mạnh ở địa phương mình. Hiện tượng đưa người thân quen vào bộ máy công quyền rồi trang bị thêm bằng cấp đạt được bằng con đường bất minh cũng làm suy yếu bộ máy hành chính ở rất nhiều nơi

2. Về văn hóa

Văn hóa, đạo đức xã hội đang suy thoái trầm trọng. Chưa khi nào tin tức về tệ nạn xã hội lại có mật độ dày đặc như hiện nay. Dường như, cái xấu và cái ác đang hoành hành ngoài xã hội và tràn lên mặt báo mỗi ngày. Kỷ cương, phép nước bị coi thường, tính tự giác tôn trọng pháp luật và các quy ước xã hội và văn hóa rất thấp. Mê tín dị đoan lên ngôi, không chỉ ở tầng lớp đại chúng mà ngay ở cả một số cán bộ cao cấp ở các cơ quan công quyền. Hiện tượng “buôn thần bán thánh” trở thành phổ biến. Những chuẩn mực về văn hóa, những giá trị phổ quát như chân-thiện-mỹ đã bị sự giả dối, cái xấu và cái ác bóp nghẹt không nhân nhượng.

Hệ quả của điều này là các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn. Sự tự trọng, danh dự đã bị sự giảo hoạt, gian dối lấn át. Người ta sẵn sàng làm đồ giả để dâng cúng Quốc tổ, Quốc mẫu; sẵn sàng tranh cướp trong các lễ hội hoa; sẵn sàng túc trực chen lấn xô đẩy đến hỗn loạn trong lễ hội phát ấn.

Chưa bao giờ, nhân phẩm của con người có thể bị xúc phạm dễ dàng và tính mạng của con người có thể bị coi rẻ như vậy. Những vụ đánh giết nhau với hung khí xảy ra thường xuyên, nhiều khi chỉ vì những nguyên nhân không đâu. Không chỉ giữa những người dân bình thường với nhau, mà còn cả giữa đại diện của cơ quan công quyền với dân chúng. Vốn văn hóa dân tộc trở nên mỏng manh hơn bao giờ hết trước sự tấn công của văn hóa ngoại, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc dưới mọi hình thức, thể loại.

Một điều hết sức đáng băn khoăn là thế hệ thanh thiếu niên đang lớn lên trong một môi trường thiếu hình mẫu cá nhân về lý tưởng và đạo đức, do vậy dễ quen một cách tự nhiên với các thói xấu như quay cóp, gian lận thi cử, đạo văn, hối lộ... Tính vị kỷ được đề cao, đi liền cùng sự thờ ơ với các vấn đề của xã hội, của đất nước.

Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng suy thoái đạo đức, văn hóa này là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng; sự băng hoại, tha hóa của nhiều công chức qua việc tham nhũng và hối lộ; và sự kiểm soát báo chí và truyền thông, - vũ khí mạnh nhất để chống lại tham nhũng, bất công, giả dối, ác độc - đã làm cho công luận bị hạn chế và vô hiệu hóa.

1, 2, 3, 4, 5

pay per click advertising

Weblinks :

 

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

 

 

free counters

Search: The Web    http://www.truclamyentu.info
un compteur pour votre site