lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Biển Cả Và Con Người

...

Bưu-Hoa Việt-Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam

...

Điện-Toán - Tin-Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng- Hòa

...

History Of Viet-Nam

...

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam

...

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Của Quốc-Gia Dân- Tộc Việt-Nam

...

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

...

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

...

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam

...

Tư-Tưởng Phật-Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn-duy-ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng-Quang-Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn-Quang-Duy

...

Trang Thơ Văn Trần-Văn-Giang

...

Trang Thơ Văn Lu-Hà

...

Trang Thơ Văn Dạ-Lệ-Huỳnh

...

Thư-Tín

...

Weblinks:

 

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

Điện Hạt Nhân Sẽ Đắt Gấp Ba Lần

1, 2

Phùng Liên Đoàn [1]

...

Gọi I là chỉ số vật giá xây dựng leo thang. Chỉ số này cao hơn chỉ số vật giá leo thang hàng ngày mà người dân biết rất rõ. I ở Mỹ và các nước tiên tiến là khoảng 5%/năm trong vài năm qua, nhưng ai cũng biết là I sẽ tăng lên hơn nhiều trong vài năm tới bởi vì nước nào cũng in tiền lạm phát để chống nạn khủng hoảng kinh tế ghê gớm nhất kể từ 80 năm trước (năm 1929). I ở Việt Nam là trên 10%/năm cho các công trình lớn như xây đập Hòa Bình, nhà máy lọc dầu Dung Quất.

Gọi L là lãi suất ta phải trả khi đi vay tiền, bao gồm cả sự kiện vật giá leo thang. Với lãi suất đi vay khoảng 8%/năm và lãi suất “có thể kiếm ra --opportunity cost of money” ngày nay, khoảng 10%-15%/năm, thì L tại Mỹ có thể tính ra là 11%-13%/năm. I ở Việt Nam có thể lớn hơn 5%/năm nhưng L có thể nhỏ hơn 11%/năm vì ta nghèo, luôn luôn được quốc tế cho vay với phân lãi nhẹ.

Gọi BĐX là thời điểm ta có đủ điều kiện để bắt đầu xây, ví dụ 2015. Các điều kiện là: có tiền sẵn sàng tại nhà băng và chính phủ quốc tế bảo lãnh để có thể chi trả ngay như giao kèo; có đủ đội ngũ thầy và thợ chuyên môn để công ty ngoại quốc không phải mang tới cả ngàn kỹ sư và công nhân (mỗi người sẽ lãnh lương nhiều gấp 10-100 lần công nhân Việt Nam); có đủ các vật liệu cần thiết và công nghệ phụ để không phải nhập cảng với giá cao hơn là thiết kế ...Ta có thể dùng con số thực tế như BĐX là 2015 để có nhà máy năm 2022.
Gọi GĐT là giá đầu tư ở thời điểm nhà máy ĐHN bắt đầu sản xuất điện năm 2022.

Công thức phỏng định để tính giá đầu tư ở thời điểm BĐX + T là như sau:

GĐT = [(1+ I) ^ (BĐX-2010)] [C1 +C2] [(1 + L)^ T]
(I và L viết theo số; 5% = 0.05)

Dùng các tài liệu 2009 của MIT [6], và các giả thiết khiêm nhường nhưng thực tế với C2 = 30 C1, BĐX = 2015, T =7, I = 5%/năm và L = 12%/năm, công thức trên cho ta vài con số “kinh khủng” sau:

Giá nhà máy ĐHN đầu tiên tại Ninh Thuận sẽ là 9775 USD/kW vào năm 2022 so với giá “mì ăn liền” là 2750 USD/kW năm 2010, hay gấp 3.6 lần. Giá các nhà máy kế tiếp sẽ đắt hơn bởi vì trễ hơn, trừ phi ta có thể rút ngắn thời gian xây (mà Mỹ, Anh và Pháp cũng chưa làm được).

Giá của nhà máy ĐHN đầu tiên tại Ninh Thuận sẽ là 11,800 USD/kW vào năm 2022, nếu ta dùng giá C1= 3330 USD/kW của MIT  như báo cáo của MIT [6]. So với giá “mì ăn liền” của BCĐT thi cao gấp 4.3 lần. Các giá này cũng không xa giá thành của các công ty điện của Mỹ tính cho những năm 2020-2025.

Giá ĐHN sẽ gấp ba lần giá ngày nay

Giá điện bán ra từ nhà máy ĐHN, hay than, hay khí đốt, hay đập nước, gồm sáu thành phần: trả vốn và lãi tiền đầu tư, tiền nhiên liệu, tiền xử lý nhiên liệu có phóng xạ cao, tiền điều hành, phí tổn phá rỡ tẩy uế phóng sạ sau 40-60 năm hoạt động, và tiền lời. Nếu không phải là nhà máy ĐHN thì các phí tổn liên quan tới phóng xạ là không có.

Với giá đầu tư khoảng 10,000 USD/kW vào năm 2022 mà ta phải gánh vác trả “vốn và lời” hàng năm cho ngân hàng khoảng 14% mỗi năm (gọi là carrying charge— gánh vác trả vốn và lời) thì mỗi năm tốn là 1400 USD. Nếu nhà máy có năng suất 90% (một việc mà sau 20 năm hoạt động Mỹ mới thực hiện được) thì số điện sản xuất là 7884 kWh/kW, hay giá đầu tư tốn 1400/7884 là 0.178 USD/kWh.

Giá nhiên liệu hạt nhân rất nhỏ, chỉ khoảng 0.02 USD/kWh (năm 2022). Tôi sẽ không nói nhiều hơn ở đây vì có nhiều chi tiết nguyên tử và thương mại rắc rối khi tính giá nhiên liệu hạt nhân.

Ngoài giá mua các thanh nhiên liệu ban đầu và mỗi 18 tháng, ta còn phải thu tiền để sử lý các thanh nhiên liệu sau khi đã dùng. Việc xử lý này ở Mỹ chính phủ bảo đảm là 0.001 USD/kWh từ 20 năm nay, nhưng sẽ tăng vì vật giá chuyên môn leo thang (chỉ số I). Việt Nam sẽ còn phải trả tiền chuyên chở rất diệu vợi (vì có nhiều luật pháp an toàn cũng như chống ăn cắp làm bom). Tôi phỏng tính là 0.002 USD/kWh hay 10% giá nhiên liệu.

Một nhà máy ĐHN 1000 MW sẽ cần khoảng 500-700 nhân viên làm việc rất chuyên môn và kỷ luật. Họ gồm Ban Quản Đốc, Ban Điều Khiển Lò ĐHN, Ban Điều Khiển các hệ thống làm điện, Ban Xử Lý Phóng Xạ, Ban Bảo Trì nhiều ngàn chi tiết theo định kỳ hàng ngày, Ban Chuyên Chở và Ban Bảo Vệ. Lương bổng của những người này cùng là vật liệu họ dùng trong công tác cũng tốn khoảng 0.02 USD/kWh, xấp xỉ giá nhiên liệu hạt nhân.

Tiền nhà máy ĐHN phải thu và để dành vào một quỹ DDR (decommissioning, decontamination and removal --ngừng hoàn toàn, tẩy uế phóng xạ và phá rỡ để môi trường trở lại hình thái thiên nhiên). Sau 40-60 năm hoạt động, tiền này dùng để tẩy uế phóng xạ và phá rỡ mọi xây cất để Ninh Thuận trở về trạng thái thiên nhiên giống như ngày nay (một việc chắc chắn rất khó làm được kể cả khi có tiền.) Kinh nghiệm phá rỡ các nhà máy ĐHN đã hoạt động trên 30 năm như Yankee Rowe, Shippingport, Big Rock và Fort St Vrain ở Mỹ cho biết là phí tổn này tương đương với khoảng 10% giá đầu tư, tính theo thời điểm BĐX.

Nếu nhà máy ĐHN chì lấy lời một trinh (0.001 USD) cho mỗi kWh điện sản xuất, thì giá điện năm 2022 sẽ là:

0.239 USD/kWh. [0.178 (tiền trả vốn và lãi) + 0.02 (giá nhiên liệu) + 0.002 (giá xử lý nhiên liệu đã dùng) + 0.02 (giá điều hành) + 0.018 (tiền phá rỡ) + 0.001 (tiền lời)]

4183 VND/kWh. [dùng hối suất là 1 USD = 17,500 VND]

Như vậy, giá điện năm 2022 sẽ gấp khoảng ba lần giá điện hiện nay (2009). Ta có thể hi vọng 90-95 triệu người dân vào năm 2022 sẽ có thâu nhập cao gấp ba thâu nhập ngày nay hay không?

Giá điện nhà máy đốt than rẻ hơn vì giá đầu tư thấp hơn

Giá đầu tư của nhà máy than kể cả các phụ kiện lọc chất SOx ra khỏi khói thì rẻ hơn nhà máy ĐHN tới 35%. Nhưng giá nhiên liệu đắt hơn nhiều, vì mỗi năm một nhà máy than 1000 MW sẽ phải đốt khoảng 4 triệu tấn than giá khoảng 52 USD/tấn hay 0.026 USD/kWh năm 2009; và với I = 5%/năm thì giá 94 USD/ tấn hay 0.047 USD/kWh vào năm 2022. Than của ta chắc phải rẻ hơn như vậy. Nếu nhà máy than phải thu khí carbonic đem đi chôn (carbon sequestration) như các nước tân tiên đang muốn làm để giảm thiểu hiện tượng hâm nóng khí quyển, thì giá nhiên liệu than sẽ tăng lên thành 0.084 USD/kWh năm 2022, tương dương với 169 USD/tấn (năm 2022). Hiện nay, Mỹ và Trung Quốc mỗi nước đốt hơn 1 tỉ tấn than mỗi năm, và cùng với dầu khí, hai nước này thải ra 45 – 50% khí carbonic của toàn thế giới. Việt Nam thải ra khí quyển không bằng vài phần nghìn Mỹ và Trung Quốc, vì thế ta không nên “mê” ĐHN mà lấy lý do là giúp nhân loại “tránh hiện tượng hâm nóng khí quyển.” Vấn đề dân sinh của ta quan trọng hơn, và dân sinh chỉ tốt nếu ta không mắc nợ đầm đìa và có thể tự lập mà không phải đi xin viện trợ. Nhà máy điện dùng than ở Việt Nam, nếu điều hành tốt như ta tự tin “thừa sức điều hành nhà máy ĐHN”, thì sẽ đem lại điện rẻ hơn điện của nhà máy ĐHN ít nhất 25%.

Giá thủy điện rẻ nhất

Đập nước nếu xây thật tốt thì có giá đầu tư khá cao.  Nhiên liệu là nước, không mất tiền nhưng tùy mùa và không phải lúc nào cũng có (ví dụ hạn hán). Phí tổn điều hành một đập thủy điện cũng rất thấp. Giá điện ở những nơi có nhiều đập nước chỉ khoảng 0.03-0.04 USD/KWh vào năm 2009 -- như ở Tây Bắc nước Mỹ và Canada, Newfoundland ở miển Đông Canada, Vân Nam và Tam Điệp ở Tây Nam Trung Quốc. Giá điện từ các đập nước tại Việt Nam cũng vậy. Nhiều người bắt chước các nước văn minh muốn hạn chế việc ta dùng thủy điện với lý do “bảo vệ môi trường”. Theo tôi, đó là ý kiến “không Việt Nam,” bởi vì ta có nhiều rừng núi mà ta lại nghèo, nên ta cần tận dụng nguồn điện này, lớn như Hòa Bình Sơn La, nhỏ như một giòng sông, miễn là ta triệt để học hỏi các kiến thức đã có sẵn về cách bảo vệ sinh vật, thực vật, lịch sử, nhân văn và kinh tế và dùng phương pháp chống lũ lụt hữu hiệu để làm đời sống của người dân trong vùng đỡ lam lũ hơn. Việc học hỏi này cũng dễ thực hiện nếu ta quyết tâm. Vào những năm 1980s tôi có giúp chương trình xây đập Hòa Bình bằng những văn kiện chống lũ lụt và giúp người dân sinh sống tốt đẹp hơn của chương trình Tennessee Valley Authority từ1930 cho tới 1980. Những kiến thức này cần một tinh thần tự lập, cầu tiến, minh bạch, và liêm khiết cao mà văn hóa “chờ lệnh ở trên” không huy động được. Các sự cố rất xấu đều có thể xẩy ra nếu ta không vun trồng những đức tính đó. Các kinh nghiệm ở Quảng Nam và Tuy Hòa trong cơn bão số 9 và số 11 năm 2009 chứng tỏ người có trách nhiệm điều khiển đập tại địa phương chưa có trách nhiệm chuyên nghiệp và tinh thần gắn bó với nghề nghiệp của mình. Sự chuyên nghiệp và gắn bó tại nhà máy ĐHN thì còn khó hơn nhiều, giống như phi công phải chuyên nghiệp và gắn bó với máy bay đắt tiền (trên 100 triệu USD) và sinh mạng của 200 hành khách.

Giá điện từ nhà máy khí đốt rẻ nhưng còn tùy thuộc ở nguồn khí

Nhà máy đốt khí từ các mỏ dầu có giá đầu tư rất thấp (chỉ khoảng 25% ĐHN) mà lại có sức sản xuất điện rất cao-cao hơn 20% ĐHN và nhà máy đốt than. Chi tiết kỹ thuật này tiếng Mỹ gọi là “heat rate” –số calori nhiên liệu phải dùng để tạo một kWh. Từ trước đến nay, giá hơi khí rất cao vì khí đốt tốt hơn dầu và than nhiều. Nhưng vì khó lưu trữ và khó chuyên chở, giá hơi khí thấp hơn dầu thô, khoảng 7 USD/mmBtu vào những năm qua, tương đương với giá 40 USD/thùng dầu thô. (Hiện nay giá dầu thô là 70-75 USD/thùng). Nhưng bây giờ giá xuống tới 5 USD/mmBtu, tương đương với 30 USD/thùng dầu thô. Sở dĩ hơi khí xuống giá như vậy vì người ta dùng kỹ thuật mới tìm ra là dưới đất có rất nhiều hơi khí. Kỹ thuật mới này là phương pháp khoan ngang (khoan một giếng thẳng tới sâu nhiều trăm mét, rồi khoan nhiều đường ngang trổ ra bốn phương ở nhiều độ thấp khác nhau). Nhờ đó mà trong vài năm qua Mỹ đã có nhiều hơi khí đến nỗi đang thúc đẩy một chương trình dùng hơi khí tạo điện, chạy xe hơi, sưởi ấm 50 triệu căn nhà trong nhiều chục năm tới. Việt Nam cũng có hơi khí dùng làm điện và có thể có hơi khí khắp nơi. Tôi hi vọng ta sẽ tìm đủ mọi cách khám phá thêm trữ lượng khí đốt ở mọi nơi-- bằng phương pháp khoan ngang, như khoan ở “bể than sông Hồng,” vịnh Bắc Bộ, bờ biển đồng bằng sông Cửu Long, và  trên Tây Nguyên. Nhiệm vụ quan trọng và cao cả của Quốc Hội là làm sao 90-95 triệu người dân Việt Nam vào năm 2020-2025 có nhiên liệu nấu ăn hàng ngày, có điện thắp đèn ban đêm, và có nhiên liệu để đi lại. Các vấn đề này có thề thực hiện bằng nhiều phương pháp nhanh hơn, tốt hơn, an toàn hơn (cho quốc gia), và nhất là rẻ hơn ĐHN.

Lời Kết

Muốn kinh tế tăng trưởng, việc sản xuất điện là rất cần thiết. Tuy nhiên, theo thông tin tôi có, Quốc Hội cần nhiều thời gian bàn cãi cho kỹ lưỡng hậu quả kinh tế và quốc phòng của việc mua nhà máy ĐHN. Hậu quả này không phải ở rủi ro “an toàn phóng xạ”, bởi vì nhà máy ĐHN sẽ không bao giờ giết người nhiều như tai nạn giao thông, bệnh tật do môi trường và thực phẩm thiếu vệ sinh, ung thư do các chất hóa học mà ta ăn uống hàng ngày, đập nước bị vỡ tàn phá nhiều làng mạc, trẻ em bị chết đuối, hoặc hậu quả của nước và khí thải từ các nhà máy Vedan và nhà máy hóa học như nhà máy lọc dầu. Rủi ro lớn nhất của nhà máy ĐHN là rủi ro “an toàn kinh tế, tài chính và quốc phòng” bởi vì nhà máy ĐHN quá đắt tiền so với các cách làm điện khác, xây rất lâu, điều hành rất khó, phụ thuộc ngoại quốc 100%, dễ là tiêu điểm phá hoại khi có nội loạn hoặc chiến tranh. Rủi ro nhà máy ĐHN nằm chết là rất cao, làm kinh tế và quốc phòng tê liệt. Rủi ro làm người dân kiệt quệ vì nai lưng trả nợ cũng rất cao.  Nhu cầu ĐHN của ta không thể đi trước các nhu cầu cấp bách nhãn tiền như giáo dục trẻ thơ; giáo dục thanh thiếu niên; giáo dục và bảo vệ người đi làm mướn ở ngoại quốc; chữa bệnh tật cho người dân; giúp sửa sang nơi ăn chốn ở cho nhiều triệu người khốn cùng; chăm sóc vệ sinh răng miệng cho 90% người dân (80 triệu người); và chăm sóc người già, người tật và những người còn mang dư nợ của chiến tranh.

Dĩ nhiên ta cần sản suất điện, nhưng tôi hi vọng Quốc Hội hãy bàn là tại sao ta xuất khẩu than qua Trung Quốc; tại sao ta nói đến bể than sông Hồng; tại sao ta không tìm nguồn khí đốt tích cực hơn; tại sao ta không sửa sang lại mạng lưới truyền điện chằng chịt ở thành phố mà sự mất điện vì hiệu ứng Ohm đáng giá vài tỉ USD; tại sao ta không xem bao nhiêu văn phòng chính phủ dùng máy làm lạnh không khí nhưng có rất nhiều lỗ hở và cửa kính thì quá mỏng; tại sao ta không bắt chước Úc dùng bóng đèn fluorescent thay vì bóng đèn hiện tại tốn điện gấp ba bốn lần. Đáp giải được những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác sẽ đưa ta đến kết luận là ta chưa làm hết những việc dễ mà đã muốn nhẩy vào làm việc “xôm” hơn nhưng có rất nhiều rủi ro cho tương lai của con cháu ta.

Tôi ước gì các nhà làm chính sách và thiết kế ĐHN có thể bỏ tiền túi của mình lập nên công ty làm nhà máy ĐHN thay vì dùng tiền thuế của dân hoặc đi vay nợ để mai hậu người dân phải trả. Khi các nhà máy này xây xong, thì phần lớn chúng tôi và quí vị lãnh đạo và thiết kế dự án hoặc đã chết, hoặc đã già, và chúng ta không ai còn chịu trách nhiệm với những gì xẩy ra. Với kinh nghiệm tạo lập các dự án lớn ở nước ta, triển vọng rất lớn là các nhà máy ĐHN sẽ nằm chết nhiều tháng, nhiều năm, hoặc vì thiếu thiết bị, hoặc vì sự cố, hoặc vì phá hoại, hoặc vì chiến tranh.  Bởi kinh tế của ta không tăng trưởng 15%/năm như điện lực muốn phát triển, người dân với thu nhập khoảng 40,000 VND/ngày không thể trả tiền điện giá 4000 VND/kWh để nấu một nồi cơm. Chính phủ tương lai có thể rơi vào tình trạng tài chính mà người ta gọi là “default—cháy túi không trả nợ được,”giống như nhiều nhà máy điện ở Mỹ đã gập phải khi các nhà máy xây vào những năm 1960-1980 bị kéo dài và giá đầu tư tăng lên gấp 2, 3 có khi 5 lần giá dự toán [5]. Hơn nữa, sau khi nhà máy xây xong, chúng cứ trục trặc hoài không sản xuất nhiều điện như thiết kế vì người điều hành chưa có văn hóa ĐHN, thành ra tiền thâu vào không đủ sức trả vốn và lời cho tiền đầu tư. Đấy là Mỹ có kỷ luật lao động rất cao và không bị tàn phá bởi chiến tranh như Việt Nam.

Quốc Hội là đại diện cho người dân làm chủ đất nước. Quốc Hội cần thảo luận thật kỹ về viễn kiến cho dân tộc trước khi quyết định về nhà máy ĐHN.

Ghi chú

[1] Ông Phùng Liên Đoàn, 70 tuổi, là Tổng Giám Đốc công ty tư vấn Professional Analysis, Inc. (PAI) tại Mỹ, chuyên môn về các dịch vụ nguyên tử và môi trường. Ông Đoàn đã từng là cố vấn cho Bộ Năng Lượng (Department of Energy-DOE) và Cơ Quan Giám Định Luật Lệ Hạt Nhân (Nuclear Regulatory Commission- NRC) của Mỹ. Ông đã tham gia thiết kế 4 nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) và viết hơn 100 khảo cứu và phúc trình về sự an toàn và giá thành của ĐHN so với các nguồn tạo điện khác. Ông cũng đã tham gia tẩy uế phóng xạ tại 10 trung tâm nguyên tử khắp nước Mỹ, cùng là khảo cứu hiện tượng hâm nóng khí quyển do việc sử dụng năng lượng toàn cầu. Ông là đồng tác giả tài liệu WASH-1400 về sự an toàn của 100 nhà máy ĐHN của Mỹ mà cả thế giới đã noi gương; và sách The Second Nuclear Era: A New Start for Nuclear Power, Praeger Publishers, New York, tiên đoán sẽ có sự  phục sinh của ĐHN. Ông Đoàn tốt nghiệp cử  nhân toán và vật lý tại đại học Florida State University, thạc sĩ vật lý và nguyên tử tại Massachusetts Institute of Technology (MIT) và tiến sĩ nguyên tử tại MIT. Ông Đoàn đã từng làm việc tại Viện Nghiên Cứu Hạt Nhân Đà Lạt, 1964-1967. Ông Đoàn và gia đình đã bỏ hầu hết tiền để dành và tiền hưu để làm việc từ thiện ở Việt Nam.

[2]  U.S. Nuclear Regulatory Commission. 1975. WASH-1400 (NUREG-75/014): Reactor Safety Study: An Assessment of Accident Risk in U.S. Commercial Nuclear Power Plants. Washington D.C. (ông Đoàn là đồng tác giả)

[3] Doan L. Phung. 1985. “Light Water Reactor Safety Before and After the Three Mile Island Accident,” Nuclear Science and Engineering, Volume 90, No.4, American Nuclear Society.

[4] Weinberg, Spiewak, Barkenbus, Livingston and Phung, 1985. The Second Nuclear Era: A New Start for Nuclear Power. Praeger Publishers.

[5] Doan L. Phung. 1983. ORAU/IEA-83-1 (M). “Economics of Nuclear Power: Past Record, Present Trends, and Future Prospects.” Institute for Energy Analysis, Oak Ridge Associated Universities, Oak Ridge, Tennessee, USA.

[6] John Deutch et al., MIT Energy Initiative, 2009. Update of the MIT 2003 Report “Future of Nuclear Power”, http://web.mit.edu/nuclear power/  Ông Đoàn quen với các tác giả. Ba trong 6 vị là bạn học của ông Đoàn. Hai trong 6 vị đã từng làm bộ trưởng DOE của Mỹ. Một vị đã từng là Giám Đốc CIA của Mỹ.

1, 2

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

 

free counters
un compteur pour votre site