CẦN XUA TAN MỘT NGỘ NHẬN
Nguyễn Minh Cần
...
Ai Cập : Sức Mạnh Nhân Dân (phần 1, 2, 3)
Tôi còn nhớ rõ, hồi đó, có một tổ chức tên là “Memorial” (Đài tưởng niệm) do Viện sĩ Andrei Sakharov sáng lập và điều hành. Tổ chức này lập ra vì dựa vào nghị quyết của đại hội 20 ĐCSLX (1956) chủ trương xây dựng một tượng đài để tưởng niệm những người cộng sản và nhân dân Liên Xô bị giết oan dưới thời Stalin. Dĩ nhiên, sau khi Brezhnev lên ngôi tổng bí thư (1964) thì ban lãnh đạo ĐCS đã lờ tịt nghị quyết đó. Nhưng Viện sĩ Sakharov cứ nộp đơn xin lập tổ chức “Memorial” để vận động cho việc dựng Đài tưởng niệm. Nhiều lần người ta đã bác đơn xin, ông cứ đòi, người bắt ông, sách nhiễu ông, cuối cùng giam ông trong một ngôi nhà ở một thành phố xa thủ đô, buộc cho ông tội hoạt động chống chế độ...
Họ không tuyên bố chính thức bỏ tù ông, nhưng nhốt ông trong nhà, ngày đêm canh giữ chặt chẽ, không cho ông ra khỏi cổng mà cũng không cho ai được đến nhà ông, trừ vợ của ông, bà cũng là một dissident nổi tiếng. Đến khi, tổng bí thư Gorbachev, do sức ép của dư luận quốc tế, buộc lòng phải trả tự do cho Andrei Sakharov thì việc đầu tiên ông làm là bắt tay thành lập tổ chức “Memorial” quy tụ được nhiều trí thức lớn, nhiều nhân sĩ nổi tiếng, nhiều nhà hoạt động tích cực của nước Nga thời đó, bất chấp sự ngăn cản, sách nhiễu, phá phách của công an, mật vụ. Muốn vận động làm Đài tưởng niệm thì phải có tiền, muốn có tiền thì phải tuyên truyền, cổ động, phải giải thích cho dân chúng vì sao đã có hàng triệu đảng viên cộng sản và thường dân phải chết oan mà nay phải xây Đài tưởng niệm. Thế là hàng trăm, hàng nghìn cuộc mit tinh, cuộc triển lãm nói về những tội ác dưới thời Stalin - dù muốn dù không thì đó cũng là vạch trần những tội ác.của ĐCS và chính quyền xô-viết. Ở một đất nước rộng lớn như Liên Xô, số tù nhân của chế độ lên đến hàng chục triệu người, rất nhiều gia đình có người thân đã bị tù tội, bị giết, cho nên những cuộc mít tinh, những cuộc triển lãm đó thu hút rất đông đảo người đến xem, và đó là cơ hội rất tốt để nâng cao ý thức quần chúng và thúc đẩy người dân càng tích cực tham gia phong trào đấu tranh.
Tôi chỉ nhắc lại vài việc như vậy thôi để thấy rằng cuộc cách mạng dân chủ ở Liên Xô hồi đó đã có sự chuẩn bị cẩn thận và tổ chức chu đáo, Chỉ có một điều này – theo tôi - là không có chuẩn bị trước: kế hoạch phải làm gì khi chính quyền xô-viết sụp đổ và dự kiến sơ bộ cho tương lai một nước Nga dân chủ, cả về hiến pháp, cả về đường lối đối nội, đối ngoại.... Vì chẳng một ai ngờ được là cuộc đảo chính của bọn bảo thủ nhất trong Bộ chính trị ĐCSLX sẽ gây ra, và đó lại là thời cơ làm bùng lên một cao trào cách mạng cực mạnh đến nỗi chỉ trong ba ngày tranh đấu cực kỳ căng thẳng, cách mạng dân chủ đã quật đổ cái chế độ tàn bạo thống trị nhân dân trong 73 năm trời mà chỉ có ba chàng thanh niên gan dạ phải hy sinh ! (Thực ra, nếu tính cả một quá trình đấu tranh nhiều năm trước nữa thì số người đã ngã xuống hoặc chết rục trong ngục tù thì phải tính hàng trăm). Thật khó có thể trách cứ những người đứng đầu phong trào hồi đó, vì Lịch sử đã chơi một “cú” quá bất ngờ cả cho họ, cả cho nhân dân Liên Xô, cả cho ĐCSLX lẫn tập đoàn độc tài toàn trị, cả cho toàn thế giới. Nhưng, chính vì không chuẩn bị những điều nói trên, nên những người lãnh đạo phong trào dân chủ hồi đó rất lúng túng, vấp váp, không nhất trí với nhau, rồi phạm phải những sai lầm nghiêm trọng gây hậu quả to lớn về sau ! Viết đến đây, tôi nhớ lại một bài báo tôi đọc đã lâu của một nhà báo Việt Nam ở tận Paris đã khẳng định rằng cuộc cách mạng dân chủ ở Liên Xô không có chuẩn bị, nó là tự phát !
Ở các nước Đông Âu cũng vậy thôi! Không có chuẩn bị, không có vận động, không có tổ chức thì làm sao có thể huy động hàng triệu quần chúng đấu tranh kiên cường trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm? Ở Tiệp Khắc, phong trào Hiến chương 77 và ở Ba Lan phong trào Công đoàn Solidarnos (Đoàn kết) cũng phải phấn đấu gian khổ trên mười năm mới giành được thắng lợi.
Trong việc chuẩn bị cho cao trào đấu tranh thì cái khâu vận động quần chúng là quan trọng nhất và khó khăn nhất. Quan trọng nhất thì rõ rồi, còn khó khăn nhất là vì đại đa số dân chúng sống nhiều thập niên dưới nền chuyên chính cực kỳ khắc nghiệt, chính mình đã từng bị hoặc đã từng chứng kiến sự đàn áp vô cùng độc ác của kẻ cầm quyền, nên nỗi sợ hãi đã ăn sâu vào tiềm thức họ, từ đó họ tự tạo cho mình thái độ “mũ ni che tai”, hoàn toàn thờ ơ, vô cảm trước mọi cảnh bất công. Ở nước ta, tình trạng đó càng trầm trọng đến nỗi có người đã từng ví khối đại chúng nước ta là một “đám bùn nhão”. Trong tình hình đó việc vận động và tổ chức dân chúng dĩ nhiên là cực kỳ khó khăn. Nhưng không nên vì thế mà đánh giá quá thấp quần chúng, mất lòng tin vào họ. Tôi nghiệm thấy đại chúng của nước Nga và nhiều nước khác dưới chế độ độc tài ở đâu cũng thế thôi, không khác gì ở nước ta cả: nỗi sợ hãi, tính vô cảm thường xuyên trói buộc, chế ngự họ. Đồng thời tôi cũng nghiệm thấy rằng khi cũng cái khối quần chúng đó đã quá tức giận cảnh bất công, nạn tham nhũng, đã quá căm ghét bọn chức sắc, quan lại, bọn đặc quyền đặc lợi của chế độ rồi thì họ “quên” hết sợ hãi, vùng lên và tỏ ra rất hăng hái, thậm chí sẵn sàng hy sinh thân mạng của mình. Nhưng nếu vì lý do nào đó, những người dân chủ không đáp ứng được nguyện vọng, ước mơ của họ thì họ lại xìu đi, trở lại trạng thái vô cảm, theo chủ nghĩa mackeno như trước. Quần chúng thường là như vậy. Cho nên, những nét tiêu cực của quần chúng mà ta thường cho là “dân trí”, “dân khí”, “phẩm chất”, “nhân cách” thấp không phải là bất biến, cố định. Chân lý muôn đời là có áp bức, bóc lột thì có đấu tranh. Có đấu tranh thì “dân trí”, “dân khí” sẽ biến đổi, “phẩm chất” của nhân dân, “nhân cách” của quần chúng sẽ đổi thay. Vấn đề quan trọng là các chiến sĩ dân chủ có gần gũi được nhân dân hay không, có hướng dẫn nhân dân đấu tranh cho quyền lợi của mình hay không để tập luyện dần cho quần chúng, rồi khéo léo liên kết, tổ chức họ lại, nâng cao trình độ cho họ, và điều quan trọng là luôn luôn giữ “ngọn lửa” nhiệt tình trong lòng họ... Đó chính là sự chuẩn bị thiết thực nhất cho đại cuộc khi thời cơ đến.
Khi nghe nói đến thời cơ, có người bực bội phản ứng mạnh mẽ: “Không có chuyện phải thời cơ. Ai cũng có cái dũng của người đó”; hoặc: “Chúng ta còn muốn chờ “đủ điều kiện chủ quan và khách quan” như các cụ muốn chờ 66 năm từ 1945-2011 không? Không! dứt khoát không, không chần chờ, phân vân, lưỡng lự như các cụ chờ 66 năm qua nữa, phải bắt tay nhau vào làm việc ngay!!!”; hoặc: “Đối với những chế độ độ tài toàn trị như của ĐCSVN và ĐCSTQ, dùng bạo lực làm cứu cánh; lập pháp, tư pháp, hành pháp, công an, quân đội tất cả đều là Đảng, còn Đảng... thì KHÔNG BAO GIỜ thời cơ chín mùi cả” (tất cả đều là nguyên văn hồi âm từ người đọc). Còn nhiều nữa, tôi chỉ ghi một số thôi. Tôi hiểu rõ tâm trạng của nhiều người nóng lòng chờ đợi ngày được giải thoát khỏi gông cùm của một chế độ độc tài hoặc sốt ruột sốt gan mong sớm được trở về lại quê hương đất tổ nên thường dễ nảy sinh những ý nghĩ như vậy. Điều này rất đáng cảm thông, và tôi tin rằng với thời gian những ý nghĩ xốc nổi đó sẽ lắng dịu và sự bình tâm sẽ giúp những người này nhận thức được vấn đề.