lịch sử việt nam
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
Tư-Tưởng Nhân-Bản Trong Khổng-Học
Nguyễn Đăng Thục
Chủ-nghĩa Nhân-Bản hay Nhân-văn trong tư-tưởng-giới Âu-Tây theo ý-nghĩa thông-thường là phàm lấy sự vật của nhân-gian thế-tục làm trung-tâm mà coi tín-ngưỡng của tôn-giáo như là phụ-thuộc. Bởi vì chủ-nghĩa này bội-phát ở thời-đại phục-hưng văn-nghệ bên Pháp, các học-giả thời ấy có khuynh-hướng bài-bác thuyết Giáo-hội vạn-năng, mà quay lại cổ-võ tinh-thần tự-do nghiên-cứu, lấy nhân-sự làm trọng, chủ-trương thái-độ lạc-quan, hết sức tán-dương tư-tưởng Hy-Lạp và La-Mã. Đấy gọi là phái Nhân-văn (Humaniste ). Kịp đến đầu thế-kỷ XIX có sự phản-động lại của chủ-nghĩa Xã-hội theo Saint Simon bèn tuyên-bố giá-trị của văn-học nghệ-thuật không nên thiên-trọng lý-tính qua đáng mà phải kiêm-trọng tình-cảm nữa. Đấy lại là tư-tưởng Tân-nhân-văn. Gần đây lại có tư-trào Nhân-sinh triết-học, hoặc là Thực-dụng chủ-nghĩa (Pragmatisme), hoặc là Nhân-cách chủ-nghĩa (Personnalisme), hoặc là Tồn-tại chủ-nghĩa (Existentialisme). Tuy lập thuyết rất nhiều, xong không ngoài tính-cách phản-đối chủ-trương duy-lý trừu-tượng mà trở về nhân-sự cụ-thể, sinh-hoạt trong thực-tế. Vậy tư-tưởng Nhân-Bản có khuynh-hướng lấy người làm gốc, quan-sát sự-vật hay giải-quyết nhân-sinh, đều lấy nhân-sự làm trung-tâm, đứng ở quan-điểm người tương-quan với vũ-trụ và người tương-quan với người, con người đầy đủ, con người toàn-thể muốn hiểu biết và có yêu ghét, nghĩa là con người có sinh-hoạt thật sự trong các cảnh-giới thực-tế lịch-sử xã-hội, chứ không phải con người trừu-tượng của lý-niệm như E. Bréhier trong Học-Viện Pháp mới viết : " ... l'objet propre de la philosophies ce n'est maintenant ni la nature ni l'esprit mais l'homme dans sa réalité concrète, qui réunit l'une et l'autre : đề-tài chính của triết-học bây giờ không phải là tự-nhiên hay tinh-thần mà là người ở trong thực-tại cụ-thể nó tổng-hợp cả hai giới ."
Nay thử xem ở Khổng-Nho, trong tư-tưởng truyền-thống của dân-tộc Trung-Hoa và Việt-Nam có tiếng là thực-tiễn, người ta đã quan-niệm vấn-đề Nhân-Bản như thế nào :
Ở thế-giới người ta hiểu Khổng-học là cái học thực-tiễn, Khổng-Phu-Tử là một nhà Luân-lý-học chứ không phải Triết-học .
" Confucius n'est pas un philosophe. C'est un moraliste érudit doublé d'un ‛ honnête homme ’ au sens où le XVIII ème siècle français entendait ce mot ". _ ( Henri Bernard _ Maitre _ Sagesse chinoise et Philosophie chrétienne ). Nghĩa là : " Khổng-Tử không phải là một triết-gia. Đấy là một nhà luân-lý, bác-học, kiêm một ‛ người quân-tử ’ theo nghĩa mà ở thế-kỷ XVIII bên Pháp người ta hiểu nghĩa chữ ‛ quân-tử ’ ".
Thật vậy, Khổng-Tử là một nhà luân-lý thực-hiện. Chính tính-cách thực-hiện ấy nó làm cho Khổng-học còn có giá-trị khả-quan trong các chủ-trương triết-lý nhân-sinh ngày nay. Bởi vì triết-lý nhân-sinh là những thái-độ sinh-hoạt, mà thái-độ thì thiên-hình vạn-trạng không thể đem lý-niệm ( concept logique ) mà hệ-thống-hóa một cách hoàn-toàn, cho nên nó không phải là triết-học theo nghĩa triết-học của Âu-Tây cận-đại, là một hệ-thống trí-thức. Vậy nếu có thể nói :
" Moraliste ( luân-lý ) + Honnête homme ( người quân-tử ) = thái-độ có ý-thức về cuộc đời ", thì Khổng-học là một triết-lý nhân-sinh ! Triết-lý nhân-sinh ấy là một chủ-nghĩa Nhân-Bản .
Là Một Chủ - Nghĩa Nhân - Bản ._
Trước hết Khổng-Tử muốn lôi tư-tưởng của nhân-loại xuống vấn-đề nhân-sinh hành-vi, không cho nó vỗ cánh tuyệt-vời trên mấy từng mây trừu-tượng. Cho nên Ngài đã tỏ một tinh-thần thực-tiễn đến nỗi có đệ-tử hỏi về lẽ sồng, chết là vấn-đề mà người đời ai đã bắt đầu suy nghĩ đều phải thắc-mắc. Ngài vội gạt vấn-đề ấy khỏi ý-nghĩ cho rằng : " Vị tri sinh, yên tri tử" ( Sống còn chưa biết sống như thế nào cho cuộc đời có ý-nghĩa, thì còn biết sao được ý-nghĩa của sự chết.) Và " Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ " ( Chưa có thể phụng-sự được người hiện-tại, gần từ bố, mẹ, anh, em, vợ, con, xa đến dân-tộc, nhân-loại, thì làm sao phụng-sự được quỉ-thần thuộc về quá-khứ với vị-lai không bờ bến .) ( )
Như thế đủ thấy tính-cách thực-tiễn trong tư-tưởng Nhân-Bản của Khổng -- lấy nhân-sự làm trung-tâm, và hơn nữa tất cả quan-niệm vũ-trụ nhân-sinh, chân-lý và công-lý đều bám chặt vào cái nền móng sâu dầy bền vững là con người nhân-quần xã-hội, lấy đạo nhân làm nêu đích, người làm mực-thước cho tư-duy và hành-động : " Nhân giả, nhân dã " ( Đạo nhân là người vậy ). Và Khổng-Tử khuyên người ta khi tìm lý-tưởng tiêu-chuẩn cho đời theo thì không nên xa lià với người đời .
" Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân bất khả dĩ vi đạo" ( ) ( Đạo-lý không xa người, đạo-lý của người ta mà xa với người thì không thể coi là đạo-lý chân thật ). Đạo không xa người tức là không chuyên-chú xét cứu tự-nhiên đến quên cả mình còn là một người sống trong nhân-quần xã-hội. Đấy là cái triết-lý của lẽ phải thông-thường của đạo Trung-Dung lấy lý trung-hòa trong trời đất làm cứu-cánh. Khổng-Tử nói : " Hưng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc " ( ) ( Nuôi tình-cảm ở người ta bằng thơ vì thơ là do súc-động vào tâm-hồn mà ra, uốn nắn vào mực-thước để hướng-dẫn bằng lễ, vì lễ là lý, phép-tắc kỷ-luật tự ngoài vào, và thành-tựu nhân-cách bằng âm-nhạc, vì nó biểu-thị cho sự quân-bình, lý hòa-điệu trong nhân-quần xã-hội và trong vũ-trụ tự-nhiên. Công-lý với chân-lý đồng-nhất tính. Xem như thế thì chủ-nghĩa nhân-bản của Khổng bắt đầu từ bước rất thấp : " Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, cập kỳ chí dã sát hồ thiên địa " ( ) ( Đạo quân tử bắt đầu mối từ tình vợ chồng đối sử với nhau, nhưng đến tột bậc của nó thì rõ rệt cả trong trời đất .)
Vậy tư-tưởng nhân-bản của Khổng, nếu có tính-cách thực-tiễn là thực-tiễn vì phương-pháp-luận, cũng như Descartes lấy hoài-nghi làm phương-pháp-luận, chứ Descartes chưa từng đi đến hoài-nghi và Khổng-Tử cũng không đi đến thực-tiễn là hết. Lin-Yutang mới đây phê-bình chủ-nghĩa Trung-Dung của Khổng có viết : " Tác-dụng của thuyết Trung-Dung có thể chứng-minh ở tất cả phạm-vi sinh-hoạt và trí-thức. Lấy lý mà nói thì người ta sẽ không lấy vợ, lấy chồng, nhưng ở thực-tế thì mọi người đều kết-hôn, cho nên Khổng-học chủ-trương đạo vợ chồng. Lấy lý mà nói thì người ta phải bình-đẳng, nhưng thực-tế mà xét thì người ta không có như thế, cho nên Khổng-học dạy về quyền-pháp và phục-tòng. Lấy lý mà nói thì nền ông, nền bà không khác nhau, cho nên Khổng-học dạy về sự phân-biệt nam, nữ. Một triết-gia là Mặc-Tử dạy lẽ kiêm-ái, một triết-gia khác Dương-Chu dạy lẽ duy-ngã, và Mạnh-Tử bài bác cả hai, chỉ trả lời gọn : ‛ Hãy yêu lấy cha mẹ mình ’. Đấy là một điều rất cảm-khích. Có một triết-gia tin phải diệt dục, một triết-gia khác tin phóng-túng tự-nhiên, nhưng Tử-Tư khuyên nên điều-độ trong mọi sự ."
Cái luân-lý điều-độ ấy, tính-cách Nhân-Bản phổ-biến của nó vì nó gần với khuynh-hướng tự-nhiên của các tầng-lớp xã-hội cho nên nó đã trở nên tư-tưởng chính-thống của thời-đại và biến thành một tôn-giáo của lẽ phải thông thường, đứng ở giữa tinh-thần siêu-hình và tinh-thần ma-thuật, một tôn-giáo không có thần-thoại của tầng lớp trí-thức, một triết-học của lẽ phải phổ-thông bình-dân. Xong tính-cách thực-tiễn của hệ-thống Khổng-học không khỏi làm cho những tinh-thần lỗi-lạc, tuy hiếm, nhưng vẫn có và tiêu-biểu cho một loại tinh-thần có ý-thức mạnh mẽ về bản-ngã thâm- thúy của nhân-loại, ở Trung-Hoa như Tô-Tuân, Tô-Thức, ở Việt-Nam như Cao-Bá-Quát, Nguyễn-Công-Trứ, đều cảm thấy sự ngạt thở vì không-khí chật hẹp của xã-hội mà thảng-hoặc có lúc thốt ra những hoài-bão tâm-linh siêu-thoát ngoại-vật tự-do :
" Cái thân ngoại vật là tiên trên đời ." _ ( Ôn Như )
Tuy nhiên xét kỹ thì triết-lý " quan điểm " của Tô-Đông-Pha hay triết-lý " hành động " của Nguyễn-Công-Trứ không thể bảo rằng không thuộc vào hệ-thống tư-tưởng của Khổng được. Sở dĩ cái tinh-thần ấy đã bị giai-cấp trí-thức Nho, tuy tán dương, nhưng không giám bênh-vực, không phải tư-tưởng của Tô hay của Nguyễn đã trái-nghịch với đạo Trung-dung. Cũng vẫn là cái triết-lý Trung-dung, nhưng chỉ vì họ Nguyễn ở Việt-Nam và họ Tô ở Trung-Hoa đã thực-hiện trên cơ sở căn-bản của nó là Vũ-trũ-quan Dịch, còn đa số chỉ coi đạo Trung-dung như là một giáo-lý. Coi như giáo-lý thì ý-nghĩa Trung-dung có vẻ thực-tiễn thiển-cận của một phương-pháp tĩnh-quan, chuyên lợi-dụng thời-cơ, a dua quyền thế, đứng trước vấn-đề sử-thế tiếp-vật không có lập-trường của mình, thành thử lúc nào cũng hợp thời mà vừa lòng tất cả mọi người. Vì Trung-dung là " chấp kỳ lưỡng đoan, dụng kỳ trung ". Giữa hai thái-độ cực-đoan, dùng thái-độ ở giữa. Lấy công-thức toán-học hợp-lý và tĩnh để diễn-tả thì ( + ) + ( – ) = 0, như thế là không có thái-độ gì hết, và cũng không có trách-nhiệm vậy. Song nếu Trung-dung đi đôi với định-luật Dịch, là biến-dịch và giao-dịch chủ-thể và khách-thể hỗ-tương ảnh-hưởng mà thay-đổi, ngoại-giới với nội-giới mật-thiết tương-quan trên quá-trình tiến tới không ngừng, thì chúng ta thấy ý-nghĩa " Trung-dung " là một thái-độ luôn luôn đổi mới và thế quân-bình cần-thiết trên lịch-trình sinh-hoạt ở xã-hội và thiên-nhiên là một thế quân-bình tạm thời luôn luôn dựng lên và luôn luôn đổ xuống. Vì người ta có thích-ứng được với hoàn-cảnh thì mới tồn-tại : " Hợp ngoại nội chi đạo dã, cố thời thố chi nghi dã " ( )
( Hợp với cái đạo-lý gồm cả ngoại-vật lẫn nội-tâm, chủ-quan khách-quan bổ-túc, cho nên lúc nào thi-thố cũng thích-ứng vậy.) Đấy là thái-độ nhập-điệu của nghệ-thuật, không còn học nghề nữa mà là đã thành, đã đạt, tự-do của hành-động " Tòng tâm sở dục bất du củ " ( Tùy theo với ý muốn trong lòng mà hành-động không ra ngoài mực-thước của nhân-sinh và vũ-trụ tự-nhiên ). Đấy là thái-độ của một nhạc-sĩ đã đồng-nhất với âm-điệu, của một họa-sĩ đã đồng-nhất với mầu sắc, của một nghệ-sĩ đã làm chủ được nghệ-thuật, và đấy là thế quân-bình động của người hành-động vậy .
Có như thế đạo Trung-dung then chốt của Khổng-học mới không cố-chấp mà lại rộng rãi và thiết-thực linh-động, phản-chiếu được vận-động dịch của thực-tại là nguồn sống sinh sinh hóa hóa. Và tuy đấy là chủ-nghĩa nhân-bản phổ-biến của xã-hội nông-nghiệp, tiếng nói của văn-hóa đồng ruộng, rừng xanh, nhưng vì dịch biến là định-luật của thực-thể " Sát hồ thiên địa " ( ) và " ý thành " là tôn-chỉ của hành-động tốt, xấu, thiện, ác, cho nên dù xã-hội có tiến-hóa, kỹ-thuật có canh-tân, cách-thức sản-xuất có thay đổi, con đường hạnh-phúc của nhân-loại vẫn là phải tìm thế quân-bình của thời-đại, quân-bình giữa nội-tâm với ngoại-vật, giữa cá-nhân với đoàn-thể, giữa xã-hội với vũ-trụ thiên-nhiên. Hơn nữa chúng ta hàng ngày còn luôn luôn phải thực-hiện thế quân-bình ở ngay chính bản thân nội-tại của chúng ta thì mới mong bảo-vệ được sự sống bình-thường, nếu chẳng phải là hạnh-phúc của sự sống. Bởi vì từ lúc " mang tiếng khóc ban đầu mà ra " cho đến khi trưởng-thành, cái Ta sinh-lý và tâm-lý đã bày ra một cảnh tang thương, một trường thế-tục tranh-đấu, nào tiếng gọi của trí-thức, nào tiếng gọi của tình-cảm mà ý-chí ở giữa nỗ-lực điều-quân để cố duy-trì nhất-tính của bản-ngã khỏi bị lối kéo tan lìa. Do đấy mà Trung-dung còn có ý-nghĩa là quân-bình ở con người tâm-lý về ba phương-diện trí, tình và ý, thống-nhất vào một cái tính duy-tinh, duy-nhất như tấm kính tam-giác : Tri, Nhân, Dũng ( )
" Tri giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ " ( Biết thì hết nghi-ngờ, nhân-đức thì không lo lắng, dũng-cảm thì không sợ hãi ) ( )
Được như thế con người mới hoàn-bị, mới quân-bình. Quân-bình là mục-tiêu tiến tới, là tiêu-chuẩn cho chân-lý và công-lý, là dấu-hiệu của hạnh-phúc .
" Thiên hạ sự thế nhi dĩ hỹ " ( Các biến-cố trong thế-giới chỉ là tình-thế quân-bình mà thôi vậy ! ) ( )
Quân-bình ở tâm-hồn cá-nhân, quân-bình ở xã-hội nhân-loại, quân-bình ở vũ-trụ tự-nhiên, trong cái " Chì trung hòa đại đồng bất dịch.
Weblinks :
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks