lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

 

Tin Tức Thời Sự - Lịch Sử Việt Nam

Về Vấn Đề Tôn Giáo Ở Việt Nam Hiện Nay

Kami

“Sẽ có người hỏi tại sao ở Việt Nam bây giờ các cơ sở tín ngưỡng, chùa quá nhiều, nhà thờ cũng quá nhiều mà lại bảo là không có tự do tôn giáo. Xin thưa sự thực không phải như vậy, đó là chính sách mị dân, chính sách đánh lạc hướng của người cộng sản đối với tôn giáo.”

Mấy ngày vừa qua, trên mạng internet có loan truyền clip video “Thầy trò Đường Tăng đi thỉnh bao cao su” có nội dung rất phản cảm, clip video gây bức xúc trong giới Tăng Ni, Phật tử, mặc dù đoạn video này được cho là nhằm tuyên truyền sức khỏe sinh sản theo chủ trương của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhưng có nội dung báng bổ Phật giáo. Được biết clip video “Thầy trò Đường Tăng đi thỉnh bao cao su” do các sinh viên thuộc Học viện Báo chí tuyên truyền thực hiện để tham dự cuộc thi tìm kiếm thông điệp xuất sắc cho dự án “Friendly Condom” (Bao cao su thân thiện) của Ngôi nhà Tuổi trẻ – Trung tâm chăm sóc, tư vấn sức khỏe sinh sản thuộc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” và được ban giám khảo đánh giá cao và giành giải xuất sắc.

Sự kiện này chỉ là một bằng chứng cho thấy sự suy đồi băng hoại trong đạo đức của con người XHCN đối với vấn đề tín ngưỡng tôn giáo, điều này nó xuất hiện không chỉ ở các bạn trẻ là sinh viên học sinh, mà cả ở người lớn (những người là thành viên ban giám khảo, báo chí truyền thông của nhà nước v.v…) khi cho loan tải các tin tức có nội dung xấu này mà họ không hề có suy nghĩ. Qua đó cũng thấy được sự thành công của đảng CSVN và chính quyền trong chủ trương bôi nhọ, bài xích, kỳ thị các tôn giáo ở Việt nam. Cái mà họ coi là thuốc phiện, là vấn đề nhạy cảm đối với sự tồn tại của sự lãnh đạo độc tôn của họ, có lẽ do vậy chính sách của đảng CSVN là cần phải biến tất cả các tôn giáo trở thành tôn giáo quốc doanh, chịu sự lãnh đạo toàn diện của đảng. Và ngược lại các tổ chức tôn giáo như của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Phật giáo Hòa Hảo v.v… không chịu khuất phục thì đều bị khủng bố và đàn áp mọt cách thô bạo và trắng trợn.

Tình trạng và chính sách nói trên đối với các tôn giáo diễn ra trong một thời gian tương đối dài 58 năm ở miền Bắc và 37 năm ở miền Nam, dẫn tới tình trạng một số lượng người không nhỏ trên toàn quốc không hiểu tôn giáo là gì, mục đích và vai trò của tôn giáo trong cuộc sống ra sao? Đa số mọi người dân không biết rằng tôn giáo là một lĩnh vực ảnh hưởng tới xã hội nhất, tới đời sống tinh thần của mọi người dân và tôn giáo là cái rất là sâu xa, sâu sắc, nó gắn liền với tinh thần dân tộc, gắn liền với đạo đức của con người. Bởi vì đảng CSVN rất lo sợ mất vị thế độc tôn trong việc lãnh đạo đất nước, đảng CSVN quá hiểu rằng nếu để tự do tôn giáo, để cái tinh thần tôn giáo, cái tư tưởng tôn giáo nằm trong tinh thần đấu tranh và họ lại càng không muốn người dân đi theo tư tưởng của một tôn giáo nào đó, vì mục đích của bất kỳ tôn giáo nào cũng là từ bi, là bác ái, là tình thương, là sự tha thứ và sự chia sẻ. Và bên cạnh đó là tính công bằng giữa con người với con người, đó là cái mà người cộng sản họ không bao giờ muốn có. Nhưng vấn đề quan trọng nhất là chính quyền không muốn người dân vì tinh thần bác ái, từ bi hoặc bình đẳng của một tôn giáo sẽ làm cho người dân họ nghiêng về tinh thần dân tộc, từ đó dẫn tới việc quần chúng xa rời niềm tin của họ vào đảng CSVN.

Trên thực tế những suy nghĩ kiểu của đảng CSVN và chính quyền của họ là sai lầm, nếu như vì họ sợ tư tưởng thần quyền trong tôn giáo, thì tôn giáo không đáng sợ như họ nghĩ mà dẫu có thì thời đó cũng đã qua lâu rồi. Bây giờ trên thực tế ngoài Iran và Tòa thánh Vatican thì hầu hết tôn giáo không bao giờ muốn cầm quyền. Tôn giáo là một văn hóa phổ quát chỉ dạy con người ta đi đến chỗ tình thương bao la, chia sẻ cho nhau, chứ tôn giáo không bao giờ gây hiềm khích thù địch hay kích động bạo lực. Nhưng người cộng sản thì khác, họ nghĩ rằng nếu như tôn giáo mà mạnh lên thì tinh thần từ bi, bác ái, rộng lượng, bình đẳng của tôn giáo sẽ đè bẹp cái tinh thần đấu tranh của họ, cho nên lý do để họ không muốn tôn giáo phát triển mạnh là ở chỗ đó.

Nếu hiểu Tôn giáo là một văn hóa phổ quát, do đó nên nó đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài người, tôn giáo là một định chế xã hội và có các chức năng kết hợp xã hội: tôn giáo có các giá trị, tiêu chuẩn về đạo đức của nó, vì thế những người có cùng một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy. Đồng thời Tôn giáo còn có chức năng hỗ trợ xã hội: dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật v.v… Trong những lúc như thế, cuộc sống rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Chính vì vậy Tôn giáo đã trở thành một thứ nhu cầu không thể thiếu được của người dân trong một xã hội coi trọng nền tảng đạo đức và ngược lại nó cũng trở thành trở ngại cho một nhà nước luôn muốn giữ và giành vị trid độc tôn về một học thuyết chủ đạo của chính họ. Đó chính là lý do khi chủ thuyết cộng sản xuất hiện ở đâu, thì lập tức ở đó mọi thứ tôn giáo chính thống đều bị bóp nghẹt và suy thoái. Thay vào đó là những thứ tôn giáo trá hình chịu sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

tôn giáo ở việt nam

Người dân đi lễ ở một ngôi Chùa Phật giáo

Thế hệ chúng tôi nói chung và cá nhân tôi nói riêng đến với tôn giáo như một sự tình cờ, vốn chịu ảnh hưởng của gia đình từ ngày xưa. Còn nhớ mùa đông năm 1972, khi cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ đánh phá miền Bắc ở giai đoạn ác liệt nhất, khi ấy mẹ tôi đã đi sơ tán theo cơ quan ở Phú thọ, cha tôi đang ở trong chiến trường miền Nam. Người của khối phố đến yêu cầu bà ngoại tôi đưa bốn anh chị em chúng tôi rời Hà nội đi sơ tán về quê gấp để tránh bom đạn, vì nghe người lớn bảo lần này Mỹ sẽ ném bom hủy diệt Hà nội. Chiều tối hôm đó, cơ quan bố tôi cho xe ô tô đưa mấy bà cháu về quê ngay trong đêm, còn nhớ khi ấy người Hà nội đều bỏ nhà cửa, bỏ thành phố đi sơ tán. Các dòng người, xe đạp, xe bò, xe ngựa, xe xích lô … chất đầy đồ đạc lỉnh kỉnh nối đuôi nhau chạy ra các cửa ô, trong không khí căng thẳng nhưng im lặng và trật tự, màn đêm tối mò xe ô tô chạy trong đêm chỉ có đèn gầm.

Quê ngoại tôi không xa Hà nội lắm, khi ấy còn nhớ mỗi lần máy bay Mỹ bay qua thì đồng thời tiếng nổ lớn của pháo cao xạ phòng không các loại nổ inh tai nhức óc. Mỗi khi như vậy là bà ngoại lớn tiếng kêu mấy anh chị em chúng tôi xuống cái hầm chữ A ở dưới bụi tre sau nhà để tránh máy bay. Bà ngoại tôi khi ấy ngoài 60 mà nhanh chân lắm, vừa chạy vừa gọi anh chị em tôi ơi ới, vậy mà khi chúng tôi xuống đến hầm đã nghe bà tôi ngồi lẩm bẩm tụng kinh, miệng “Nam mô a di đà Phật…” luôn mồm. Lúc ấy lũ chúng tôi còn bé, khoảng 9-10 tuổi vì con nhà lính nên “giỏi” về khoản súng đạn lắm, nghe tiếng súng phòng không nổ cũng biết là tiếng nổ của pháo trung cao, đại cao, 12ly7 hay tên lửa. Ngồi trong hầm mấy anh em cứ cãi nhau tiếng ấy tiếng pháo gì, mỗi lần như thế là bà ngoại tôi gắt lên bảo ngồi im, bà bảo đừng nói to, nếu không máy bay Mỹ nó nghe thấy nó quẳng bom vào thì chết. Khi ấy chúng tôi cũng tưởng thật, ngồi im thin thít vì sợ.

Nhà bà ngoại tôi ở quê, nhưng khi bà lấy chồng thì lên Hà nội ở, ngôi nhà bỏ không chả có người ở từ lúc các cụ thân sinh bà ngoại tôi qua đời, hàng năm chỉ dịp giỗ tết mới có các bác các chú họ hàng đến quét tước dọn dẹp. Đó là căn nhà gỗ ba gian hai trái, lợp ngói âm dương, trước nhà là một cái sân gạch có cái bể nước mưa dưới mấy gốc cau và mấy cây bưởi, cây nhãn. Ngày ấy làng bà tôi mọi đường xá ngõ ngách đều lát gạch sạch sẽ lắm, trước cửa nhà có bắc hai phiến đá to và rộng vượt qua cái rãnh nước. Nghe bà bảo làng bà tôi có tục khi con gái làng lấy chồng, thì nhà trai (rể) phải bỏ tiền làm cho làng 20 m đường lát gạch nên mới được như vậy. Về quê ngày rằm mùng một hàng tháng, bà ngoại tôi mặc áo dài nâu, đầu vấn khăn đi lễ chùa Cả cùng các ông các bà trong làng. Chùa Cả làng tôi lớn lắm, trong Chùa có nhiều tượng phật dọc hai hành lang, ở gian chính có tượng Phật ngồi trong trướng, hai bên còn có nhiều tượng Phật khác nhau, ngoài cùng có hai tượng ông Thiện, ông Ác to lắm. Thời ấy, các dãy nhà bên cánh gà chùa Cả thì tượng Phật bị dẹp bỏ hết để làm lớp học cho học sinh, hay làm nhà kho của hợp tác xã nông nghiệp.

Đến khi ấy chúng tôi mới lơ mơ biết về Chùa, về Phật và biết thế nào là Đình, Chùa, Đền hay Miếu cũng do bà ngoại dạy cho. Còn nhớ bà bảo Đình làng là nơi thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân, Chùa là nơi thờ Phật, Đền là nơi thờ tự một anh hùng có công với đất nước hay công đức với địa phương, và Miếu là nơi thờ thần thánh. Làm gì sai, không đúng bà ngoại tôi thường nhắc “Đừng làm thế mà phải tội” rồi bà nói cho nghe ai làm điều thiện thì khi chết được lên thiên đàng, là điều ác sẽ phải xuống địa ngục v.v…

Những điều đó cũng là những bài học vỡ lòng cho tuổi thơ ấu của chúng tôi về Phật giáo. Điều mà bây giờ ít người ở Việt nam hiểu biết được.

Ở Việt nam bây giờ những người coi mình là phật tử hay tăng ni (không được giáo dục có bài bản) người ta dùng chung một động từ đi lễ, bất kể là đình, chùa, đến, miếu. Trừ một số nhỏ trong một vài chục năm gần đây tụ tập thành các nhóm đi chùa đọc kinh, ngồi thiền nhằm tĩnh tâm. Còn lại đa số đi lễ để cầu tài cầu lộc, quan chức hay viên chức thì đi lễ cầu thăng quan tiến chức, cầu trúng quả, cánh thương lái thì cầu tiền bạc chảy vào như nước, chảy ra nhỏ giọt, đám sinh viên học sinh thì cầu nhưng thi đỗ v.v… Nói chung là để cầu xin thánh thần ban bổng lộc cho cá nhân mình, điều này hầu như trái với trết lý của đạo Phật là là từ bi, là bác ái, là tình thương và sự chia sẻ cho người khác thì có phúc.

Kami đi lễ tại Đền Thánh Mẫu, thành phố Hà Giang đầu Xuân Nhâm Thìn 2012

Tôi mới đây cũng đã thử là nạn nhân của sự mê tín, chẳng là Tết vừa rồi có người thấy tôi ốm đau, liền mách cho đi lễ ở thành phố Hà Giang, đó là Đền Mẫu thờ Mẫu Thánh Mẫu Liễu Hạnh – Đền Mẫu sơn hình thành có tên chữ Hán là “ Cấm Sơn Linh Từ” còn thờ Đức Thánh Trần và Đền Thác Con có cách đây khoảng trên 300 năm, lúc đầu là am nhỏ thờ Thần chủ của Đền Thác Con Chầu Bà Đệ Nhị. Theo truyền thuyết thì Bà thuộc nhân thần, có công đóng góp lương thực, tiền bạc giúp vua Lê chống giặc Minh ở vùng biên ải Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng nên sau khi bà hóa, Vua Lê đã phong tặng cho bà dang hiệu “Thượng Ngàn Thánh Mẫu” với dân gian tôn kính bà làm Thánh Mẫu (Mẫu Thượng Ngàn). Theo họ hai Đền này thiêng lắm, cầu được ước thấy, phần cũng mong nhanh khỏi bệnh, phần cũng nể lời người thân, phần nhân dịp cũng muốn xuất hành đầu xuân Nhâm thìn tôi cũng đi cho vui lòng mình và lòng mọi người. Cũng mong có sự huyền bí bất ngờ nào đó để mình mau lành bệnh thì cũng tốt.

Cảnh các bà, các chị, các cô ở các đền chùa vào những ngày lễ tết, ngày rằm mùng một, khi hai tay bưng lễ vật, chen lấn, xô đẩy rồi xuýt xoa khấn vái cầu tài cầu lộc là chuyện bình thường. Nhưng đi chùa lễ Phật mà họ chửi nhau ngay trong Chùa thì không thể chấp nhận được, tôi từng chứng kiến trong đám người đứng cầu khấn có hai bà xồn xồn, mặt hoa da phấn chửi nhau. Một bà không hiểu sao chửi bà bên cạnh “Tiên sư con đ. ĩ, khấn đe’o gì to thế không để cho bà mày khấn với, định ăn một mình phải không?”. Đạo Phật ở Việt nam mình bây giờ lại là như thế sao? Hình như đạo Phật của người Việt và người Trung quốc giống nhau ở Văn hóa hối lộ thần linh, người đi lễ luôn nghĩ phải có mâm cao cỗ đầy cũng như tiền công đức, tất cả đều mang tính kinh doanh dâng lễ một để xin lãi mười.

Không như phật tử ở Thái lan, Myanmar, Lào hay Camphuchia buổi sáng hàng ngày các Phật tử họ nấu cơm, xôi, thức ăn, hoa quả chờ nhà sư đi qua cửa nhà để tắc bạt (dâng đồ ăn, vật dụng cho nhà sư), hay đi lễ Chùa ngày Phật (có 5 ngày/tháng) cũng vậy họ mang theo các cặp lồng cơm, thức ăn, hoa, quả để dâng cho nhà sư. Nhà sư dùng không hết thì để dành cho người nghèo quanh chùa đến lấy về ăn. Phật tử họ chủ yếu làm công đức bằng tiền bạc, tiền công đức được công bố ngay sau khi hết buổi lễ và gửi vào nhà bank do một hội đồng quản lý chi tiêu. Đó là lý do vì sao ở các xứ của họ chùa chiền nhiều và đẹp như thế. Phật tử xứ họ quan niệm cho người khác càng nhiều càng có phúc cho mình và con cái nên họ không tiếc.

Sẽ có người hỏi tại sao ở Việt Nam bây giờ các cơ sở tín ngưỡng, chùa quá nhiều, nhà thờ cũng quá nhiều mà lại bảo là không có tự do tôn giáo. Xin thưa sự thực không phải như vậy, đó là chính sách mị dân, chính sách đánh lạc hướng của người cộng sản đối với tôn giáo. Họ đang cố tình biến hình ảnh của tôn giáo thành một thứ tín ngưỡng hỗn tạp, hòng cho người dân mê muội và dần không có khả năng phân biệt đâu là tôn giáo, đâu là tâm linh và đâu là mê tín dị đoan. Ví như khi một đứa trẻ mới sinh ra, trong người của nó không có sẵn một chút mê tín dị đoan nào cả, nhưng khi lớn lên, đứa trẻ từ từ học được những hành động, những phản ứng, những cách suy nghĩ này qua gia đình và xã hội chung quanh. Những người có nhiều mong muốn và mơ ước cao xa quá khả năng của mình, những người có thu nhập càng bấp bênh, cuộc sống càng tùy thuộc vào các yếu tố khách quan khác thì thường càng có nhiều thủ tục mê tín gắn liền vào cách thức, lề lối sinh sống hàng ngày của họ.

Cho dù Điều 18 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà Việt nam tham gia với tư cách thành viên có nêu rõ “Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.”. Thế nhưng chính quyền Việt nam không bao giờ nghiêm chỉnh thực hiện những cam kết nói trên về vấn đề tôn giáo.

Tôn giáo hay bất cứ vấn đề gì ở đất nước này cũng phải chịu sự lãnh đạo, tuyệt đối của đảng CSVN vì đó là nguyên tắc bất di bất dịch. Đừng bao giờ trách họ nói một đằng làm một nẻo cũng vì theo nguyên tắc trên.

Ngày 22 tháng 03 năm 2012
© Kami

Bàn về lực lượng hậu thuẫn của các tổ chức chính trị

“… tại sao áp lực cuộc sống đang đè nặng lên vai tầng lớp dân nghèo, là những người công nhân, nông dân, các cựu chiến binh, những người làm ăn chân chính sống dựa vào đồng lương hay lực lượng dân oan khổng lồ, mà sự bức xúc, phẫn uất của họ có thể ví như một quả bom nổ chậm nhưng không hề có phản ứng?”

Tôi rất thích câu “Lãnh tụ hay lãnh đạo, cũng như tã lót, cần phải được thay đổi thường xuyên, vì cùng một lý do!”, câu trên có nghĩa người lãnh đạo ở bất kỳ đâu nếu để tại vị lâu thì sẽ nhiều khiếm khuyết và dẫn đến có các hành xử bẩn thỉu trong công việc lẫn tư cách. Có lẽ vì thế mà nhiều quốc gia đã quy định rõ trong Hiến pháp của họ về kỳ hạn đảm trách chức vụ đối với các quan chức cấp cao, vì ta biết quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn tới sự tha hóa tuyệt đối. Đó là biện pháp phòng tránh và ngăn ngừa.

Với thể chế chính trị độc tài toàn trị như ở Việt nam hiện nay, thì chính quyền cũng như vậy, nghĩa là cũng cần phải có sự thay đổi. Bởi vì nếu một chính quyền nhà nước nào đó tự cho mình cái quyền độc quyền chính trị thì hậu quả sẽ dẫn tới sự tha hóa của các nhà lãnh đạo, bởi vì họ không chịu bất kỳ một cơ chế kiểm soát và điều chỉnh (check and balances) nào. Hậu quả là đất nước đó sẽ không cơ cơ hội phát triển hết khả năng và tiềm lực vốn có của mình có thể và thực tế đã minh chứng điều đó đang là sự thật.

Để giải quyết sự bất cập này, để thay thế các quan chức lãnh đạo cao cấp hay cả một chính quyền, ở các quốc gia tiến bộ theo chế độ chính trị tự do dân chủ điều này đã được giải quyết bằng các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, công khai và minh bạch có đa đảng tham gia mà, khi đó chính quyền sẽ do người dân tự lựa chọn thông qua lá phiếu bầu cử của mình. Đây là sự cạnh tranh chính trị lành lành mạnh để cử tri quyết định chọn những người lãnh đạo có tài để phụng sự cho mình và đất nước của họ. Dẫu biết rằng thể chế chính trị dân chủ tự do chưa phải là một thể chế chính trị hoàn hảo nhất, xong cho đến giờ phút này thì nó vẫn là cái thể chế chính trị tốt nhất so với các thể chế chính trị hiện có của xã hội loài người đồng thời đây cũng là cách tránh tình trạng xung đột chính trị giữa các phe phái trong một quốc gia.

Bản chất vốn dĩ của sinh vật nói chung và con người nói riêng là tính phản kháng đối với tự nhiên, bởi nhờ đặc tình này mà nó đã tồn tại và phát triển không ngừng. Nếu không có đặc tính phản kháng chắc chắn sinh vậy hay con người không thể tồn tại đến ngày hôm nay. Trong xã hội con người cũng thể, sự phản kháng muôn mặt kể cả sự phản kháng với chính quyền luôn là bản năng tiềm ẩn trong mỗi con người nó luôn luôn có khả năng bộc phát khi có cơ hội. Mọi sự bức xúc của con người nếu không được phép tự do giải tỏa thì tới một lúc nào đó nó sẽ bật tung như một cái lò xo, hay một nồi hơi bị hỏng van. Và hậu quả thế nào cũng hết sức khó lường trước, ví dụ chuyện ở Đài loan người ta có các cửa hàng cho khách hàng sử dụng dịch vụ trút sự giận dữ, bằng cách đập bát, đập đĩa và các vật dụng. Dịch vụ này khá phát đạt bởi số người mắc bệnh phản ứng với stress tăng lên trong một xã hội công nghiệp hóa ở Đài loan khá nhanh.

hậu thiẫn chính trị

Lực lượng hậu thuẫn của các tổ chức chính trị khi được phát huy sẽ có tác dụng thế này

Ở xứ Đài loan giàu có, dân chủ, văn minh mà còn như vậy, thì chuyện số người mắc bệnh phản ứng với stress này ở xã hội Việt nam đang ở mức độ nào? Hình như chưa có một nghiên cứu khoa học nghiêm túc nào đề cập cụ thể về tỷ lệ phản ứng của người dân Việt nam đối với chính quyền hiện tại. Khi mà toàn xã hội sống trong một chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề theo như lời của Giáo sư – Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, tình trạng đó dẫn tới hậu quả tạo nên cách chính sách chính trị, kinh tế, xã hội hết sức bất cập, khiến giá cả tăng vọt làm ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống của những người lao động chân chính. Đó là chưa nói đến khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng lớn. Vậy mà hình như tình hình chính trị xã hội Việt nam nhìn bề ngoài đến nay vẫn có vẻ ổn định, không biết có phải vì dân Việt nam đã quá quen chịu đựng, để rồi họ thờ ơ vô cảm hay không? Nếu không phải như vậy thì tại sao áp lực cuộc sống đang đè nặng lên vai tầng lớp dân nghèo, là những người công nhân, nông dân, các cựu chiến binh, những người làm ăn chân chính sống dựa vào đồng lương hay lực lượng dân oan khổng lồ, mà sự bức xúc, phẫn uất của họ có thể ví như một quả bom nổ chậm nhưng không hề có phản ứng?

Câu trả lời cho vấn đề ở Việt nam là có lẽ vì chưa có người (tổ chức) làm công việc châm ngòi nổ để tạo nên một hiệu ứng đám cháy lớn trên diện rộng, nhưng điều quan trọng hơn cả là hình như các chính đảng và tổ chức chính trị trong nước và hải ngoại chưa xác định được lực lượng nào sẽ hậu thuẫn cho chính đảng hay tổ chức của mình.

Nguyên tắc chung bắt buộc của các chính đảng hay tổ chức chính trị trong sự vận động để dân tới một sự thay đổi về chính quyền trong hoàn cảnh xã hội độc tài hay tự do dân chủ điều quan trọng là phải xác định lực lượng hậu thuẫn cho chính đảng của mình. Việc tính toán lựa chọn đó phải dựa trên lực lượng chiếm tỷ lệ số đông trong xã hội, vì một khi việc lựa chọn chính quyền thông qua việc bầu cử, thì khi bỏ phiếu thì ngài tỷ phú cũng chỉ bằng bà quét rác vì đều chỉ một lá phiếu bầu như nhau, do đó đích hướng tới thông minh nhất của mọi chính đảng nhằm tới sẽ là tầng lớp dân nghèo có thu nhập thấp. Vì lực lượng này đã nghèo do vậy sẽ luôn có mặc cảm chán ghét chính quyền và mong muốn có sự thay đổi bất kể tương lai sẽ tốt hay xấu.

Biết điều đó để thấy đó là trách nhiệm và thách thức của các tổ chức chính trị trong và ngoài nước phải nghiên cứu để đề ra các biện pháp hành động ngay, để sao cho phải tạo nên hiệu ứng nhất hô bá ứng, một người hô để vạn người đều hưởng ứng đồng lòng, đồng loạt làm theo, điều tưởng chừng đơn giản đó vậy mà cũng khó mà tìm ra. Bởi cần phải hiểu hành động của con người phải bắt đầu từ nhận thức của họ, chỉ khi nào người dân đã thức tỉnh, cộng với áp lực nhiều mặt của cuộc sống đè nặng lên họ thì khi đó sức mạnh của họ sẽ được nhân lên vô cùng lớn. Nhưng trên thực tế công việc này không được quan tâm thỏa đáng, bằng chứng là sự tuyên truyền vận động của các chính đảng hay tổ chức chính trị đối lập hoàn toàn dựa vào mạng internet. Xin hỏi đa số tầng lớp dân nghèo có thu nhập thấp là lực lượng chủ lực của mọi cuộc thay đổi chính quyền ở Việt nam hiện nay họ có điều kiện tiếp cận với các thông tin trên mạng internet hay không?

Tình trạng trên có lẽ vì chúng ta nhầm lẫn vai trò của truyền thông và vai trò của các tổ chức chính trị, nhiều người nghĩ các nhà báo, các bloggers phản biện chính quyền (phải) là những người hoạt động chính trị và chính trị gia thì cũng cần phải tập trung cho việc viết báo hay viết blog để tuyên truyền. Đó là những suy nghĩ hết sức sai lầm, nhà báo họ làm vai trò phản biện xã hội, cũng ví như sản xuất ra sản phẩm nhằm khai sáng dân trí, nhưng công việc phân phối các sản phẩm nói trên (truyền tải, đưa các thông tin) tới quần chúng thì là trách nhiệm của các tổ chức chính trị.

Vì với hiện tại các thông tin mang tính chất phản biện xã hội, nâng cao dân trí để người dân hiểu được quyền của họ và trách nhiệm của chính quyền ở góc độ mang tính đối lập mới dừng lại ở các chương trình radio (số lượng rất ít) và các trang mạng trên internet. Nó lại là những cái quá xa vời với những người nghèo vì họ không có khả năng và kỹ năng để tiếp cận, mà tầng lớp dân nghèo, dân oan họ cần các loại báo giấy, các bản photo copy nhỏ gọn để truyền tay nhau. Điều đó sao không thấy ai hay các tổ chức chính trị triển khai để làm, thử so với các điều kiện kỹ thuật hiện nay với các bản báo, tạp chí hay truyền đơn trên khuôn khắc gỗ bằng đá, in roneo, in typo ngày xưa của những người cộng sản họ đã từng làm ngày xưa và hiệu quả của nó cao tới mức nào. Ngay trong các nhà tù lớn những người cộng sản họ còn tìm mọi cách, mọi điều kiện để xuất bản báo bí mật để tuyên truyền cho nhau nhằm củng cố tinh thần?

Các tổ chức chính trị, các chính trị gia nghĩ gì về việc này?

Công việc này không khó, dễ làm vấn đề quan trọng là cần phải giữ được bí mật. Mỗi cơ sở trong nước của các tổ chức chỉ cần một máy tính, một máy in kèm photo copy với chi phí khoảng 400 $, mỗi ngày phát tán khoảng 100 -200 bản in lại các bài viết quan trọng, mang giá trị thông tin cao để quần chúng đọc và truyền tay nhau. Mỗi ngày một ít, nhiều ngày sẽ nhiều dần lên, công việc nếu tiến hành thường xuyên liên tục trong một vài năm sẽ mang lại hiệu quả vô cùng lớn. Ở Việt nam, muốn có sự thay đổi, muốn có cách mạng hoa Nhài hay hoa Cải thì đây có lẽ là biện pháp duy nhất có hiệu quả cao.

Trong xã hội có muôn vàn ngành nghề khác nhau, mỗi người mỗi nghề, mỗi người mỗi việc. Chỉ riêng trong vấn đề tổ chức đấu tranh chính trị đã có không ít các lĩnh vực, các vấn đề cần phải giải quyết. Mỗi lĩnh vực cần phải có các chuyên gia chuyên sâu vào vấn đề đó, người làm chính trị và và các nhà báo, blogger cũng vậy việc ai người đó làm để tạo nên tính chuyên nghiệp, đồng thời tránh tình trạng dẫm chân lên nhau. Đối với những người muốn tham gia hay hoạt động hay dấn thân làm công việc chính trị thì cũng vậy, cần phải có kiến thức hiểu biết về vấn đề khoa học chính trị, ai không (hoặc chưa) biết thì phải chịu khó dành thời gian để tìm hiểu, đọc các tài liệu, suy ngẫm để biến nó thành kiến thức của mình để áp dụng cho công việc mà mình theo đuổi cho đúng và đảm bảo tính khoa học. Tránh để xảy ra tình trạng như một số người không có kiến thức và hiểu biết về tổ chức đấu tranh chính trị, mượn việc làm chính trị nhằm khuếch trương tạo tiếng vang về tên tuổi của cá nhân mình, bằng những tuyên bố gây hiệu ứng sock và phản cảm cho dư luận, đây là một việc làm lợi bất chấp hại cần phải chấm dứt. Vì như thế vô tình tự họ biến mình thành một gã hề trong mắt của quần chúng, điều đó hết sức nguy hiểm bởi nó làm xấu đi hình ảnh và thiện cảm của quần chúng nhân dân đối với phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt nam vốn dĩ đang èo uột và mỏng manh.

Làm bất cứ việc gì, kể cả việc đấu tranh chính trị xin mỗi người chúng ta nên suy nghĩ đến cái lợi, cái hai. Đâu là cái hay, cái dở để xác định cái nên và không nên làm. Vì nhiều khi sự nhiệt tình cộng với sự ngu dốt bỗng chốc biến bản thân mình thành kẻ phá hoại.
Nếu so sánh công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ ở Việt nam với quốc gia láng giềng Myanmar thì thấy chúng ta còn thiếu rất nhiều yếu tố căn bản cần phải có, nhưng ngược lại thì quá thừa nhưng cá nhân và tổ chức mang danh nghĩa đấu tranh chính trị, mà thực chất chỉ là một phường đánh trống múa rối với mục đích nhằm gây thanh thế và tạo dựng tên tuổi.

Thử hỏi những cái đó có mang lại lợi ích gì cho phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ của Việt nam hay không, hay ngược lại là hành động phản tác dụng?

Ngày 20 tháng 03 năm 2012
© Kami
————————
*Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA
Theo: RFA Blog’s

pay per click advertising

Weblinks :

 

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

 

 

free counters

Search: The Web    http://www.truclamyentu.info
un compteur pour votre site