lịch sử việt nam
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
1, 2
Nguyễn Quang Duy
Khai mạc Hội Nghị Ban Chấp hành trung ương, ngày 6/10/2011, Nguyễn Phú Trọng cho biết: “Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước lại đang có những khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương. Vì vậy, Bộ Chính trị đề nghị Trung ương dành thời gian thích đáng cho nội dung này.” Lý do triệu tập Hội Nghị xác nhận đảng Cộng sản đang gặp bế tắc trong việc điều hành nền kinh tế Việt Nam.
Trong lời khai mạc Ông Trọng còn tiết lộ đã có những khác biệt ý kiến trong Bộ Chính Trị về việc điều hành kinh tế của Thủ Dũng đến độ phải công khai mang ra bàn thảo: “Vừa qua, các báo cáo, tài liệu của Ban cán sự đảng Chính phủ đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc; đã lắng nghe, tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp của các ngành và các cơ quan, các chuyên gia, các nhà khoa học. Bộ Chính trị cũng đã dành một ngày để nghe và cho ý kiến. Tuy nhiên, do đây là vấn đề lớn và rất hệ trọng, không ít nội dung còn có ý kiến khác nhau …”
Ông Trọng đề nghị Ban Chấp hành trung ương: “cần trả lời câu hỏi, hiện nay kinh tế - xã hội nước ta đang ở đâu; đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất chưa; xu hướng sắp tới thế nào ? Nhận định, đánh giá chuẩn xác tình hình và dự báo đúng xu hướng phát triển là căn cứ rất quan trọng để có quyết sách đúng.” Ông còn tự hỏi “Phải chăng sắp tới chúng ta vẫn phải tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, duy trì mức tăng trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm tiếp theo của kế hoạch 5 năm.” Câu nói cho thấy chính cá nhân ông cũng không còn tin tưởng vào khả năng điều hành kinh tế của Thủ Dũng. Ông còn xác nhận những phân hóa trầm trọng đang xảy ra giữa 14 thành viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam.
Kinh Tế Thị Trường Chỉ tồn tại dưới Thể Chế Dân Chủ
Kinh tế và Chính trị là hai lãnh vực luôn gắn bó bên nhau. Thể chế chính trị dân chủ vì dân do dân và của dân. Vậy phải chăng nền kinh tế tự do cũng là của dân do dân và vì dân ? Đúng vậy kinh tế quốc dân là tổng hợp tài sản, cả vật chất lẫn tinh thần, của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng quốc gia. Do đó sự phát triển của một nền kinh tế là từ thành quả đóng góp của mọi thành viên và vì lợi ích chung của cộng đồng dân tộc. Dân có giàu thì nước mới mạnh.
Ông Adam Smith đưa ra lý thuyết về một nền kinh tế lý tưởng, ở đó mọi cá nhân được hòan tòan tự do quyết định và hành động kinh tế để tối đa lợi ích cá nhân. Ông tự ví kinh tế tự do như cánh tay vô hình tạo nên sự thăng tiến xã hội.
Trên thực tế quyền lợi và quyền lực cá nhân lại là động cơ thúc đẩy con người hành động. Cá nhân lại thường quên đi hay không biết đến quyền lợi của xã hội và của các thế hệ tương lai. Từ suy nghĩ ích kỷ dẫn đến họat động kinh tế không mang đến lợi ích tối ưu, mà có khi còn làm hại cho xã hội. Thị trường tự do lý tưởng không tồn tại trên thực tế.
Xã hội càng tiên tiến thì những mặt trái của thị trường tự do càng bộc lộ. Từ đó chính phủ được giao cho trách nhiệm điều chỉnh các yếu kém của thị trường tự do nhằm mang lại lợi ích tối ưu cho cộng đồng dân tộc. Dưới thể chế dân chủ người dân sẽ tự do chọn lựa người đại diện để bảo vệ và tranh đấu cho quyền lợi của mình.
Thể chế dân chủ cũng phát sinh hệ thống truyền thông độc lập và chuyên môn, thông tin các sai sót của thị trường tự do để chính phủ và cá nhân nhanh chóng giảm thiểu mối nguy hại đến xã hội.
Chính vì thế nền kinh tế thị trường phải được xây dựng trên nền tảng của một thể chế dân chủ. Vì thế trong cùng hòan cảnh và điều kiện, nước nào càng dân chủ thì dân tộc đó càng thịnh vượng văn minh.
Kinh Tế Kế Họach Hóa Cộng Sản
Ngược lại với thể chế dân chủ là độc tài tòan trị cộng sản. Ở đó mọi quyết định xuất phát từ một cá nhân (Stalin, Mao Trạch Đông …) hay từ một nhóm người (Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng…). Trên lý thuyết mọi người được nhà nước cộng sản lo cho từ miếng cơm, manh áo, đến giáo dục, công việc làm, thậm chí cả việc dựng vợ gả chồng sinh con đẻ cái.
Trên thực tế cá nhân thường ích kỷ quên đi, hay thiếu nhận thức được quyền lợi của xã hội và của các thế hệ tương lai. Và khi nhà nước quyết định mọi vấn đề thì các cá nhân cũng mất đi động lực thăng tiến, họ trở thành thụ động, không muốn tiến thủ, sống bám vào xã hội, dần dần đưa đất nước đến suy thoái khủng hỏang. Cán bộ đảng viên thì lạm dụng quyền lực vơ vét tài sản quốc gia và kết quả là sụp đổ tòan bộ hệ thống như đã xảy ra tại Đông Âu và Liên Sô. Một vài quốc gia còn bị cộng sản chiếm đóng như Việt Nam cũng đang bước vào con đường sụp đổ.
Mô Hình Trung Cộng
Cuối thập niên 1970, Trung cộng đã bắt đầu áp dụng một mô hình cởi mở kinh tế nhưng vẫn xiết chặt guồng máy chính trị. Mô hình này khởi đầu bằng việc Trung cộng cho thiết lập một số khu chế xuất với vốn đầu tư nước ngòai sử dụng nguồn lao động rẻ, tập trung cho xuất khẩu.
Từ đó đến nay nhà cầm quyền Trung cộng luôn tìm mọi cách để trợ giúp tối đa cho việc xuất khẩu. Cụ thể nhất là việc kềm giữ đồng Nguyên (nhân dân tệ). Nhờ nỗ lực này hàng Trung cộng rẻ hơn thực giá để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hàng hóa sản xuất và xuất khẩu đã tạo thêm công ăn việc làm và thúc đẩy thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Việc gia tăng xuất khẩu lại tạo ra một cán cân thương mãi thặng dư. Thặng dư này lại được đầu tư vào các ngành công nghệ xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cứ thế họ cho là phát triển bền vững và ổn định.
Thế nhưng việc giữ giá đồng Nguyên làm giá hàng sản xuất rẻ hơn thực giá dẫn đến việc tài nguyên thiên nhiên bị tận dụng và nhân công đã không được bồi hòan lao động, tiền lương rất thấp. Nói cách khác phương cách điều hành kinh tế của Trung cộng là lạm dụng tài nguyên và bóc lột lao động.
Vì được nhà nước bảo trợ, các nhà sản xuất mất đi động lực cạnh tranh về lâu dài chỉ còn khả năng sản xuất các mặt hàng rẻ tiền kém phẩm chất. Ngược lại hàng hóa nhập cảng phẩm chất cao thì lại mắc hơn thực giá, dẫn đến việc người dân chỉ được tiêu thụ các hàng hóa nội địa kém phẩm chất, hàng tồi, hàng xấu, hàng độc hại. Cũng chính vì những lý do trên hầu hết các quốc gia phát triển đã cho thả nổi đồng tiền để hàng hóa nước họ được tự do giao thương trên thị trường quốc tế và ngược lại. Giữ giá đồng tiền là một phương cách lỗi thời đã được đào thảo từ ba thập niên qua.
Mô hình kinh tế Trung cộng dẫn đến hai hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Thứ nhất Trung cộng cạn kiệt tài nguyên và nhu cầu nguyên nhiên vật liệu cần cho sản xuất càng ngày càng gia tăng. Thứ đến để tiếp tục gia tăng sản xuất Trung cộng bằng mọi cách phải giữ các thị trường sẵn có và tìm mọi cách xâm chiếm các thị trường mới. Sẵn bản chất bá quyền Trung cộng trở nên một mối đe dọa cho nền kinh tế tự do và hòa bình thế giới.
Thặng dư về ngân sách và ngọai thương đã dẫn đến việc giới cầm quyền địa phương vay mượn nợ công để đầu tư vào các công trình thiếu thực tế. Nhiều công trình lớn đựơc hòan tất nhưng phẩm chất kém hay không mang lại các lợi ích thiết thực cho xã hội. Nhiều tài nạn đã xẩy ra trên các tuyến đường sắt cao tốc nói lên đựơc thực trạng kỹ thuật Trung cộng. Nhiều thành phố được xây dựng không người ở, mặc dù dân Tầu vẫn thiếu nhà ở phải chui rúc trong các khu ổ chuột. Nhiều Tập Đòan kinh tế cũng được thành lập từ tiền vốn chính phủ và đều họat động không mang lại những lợi ích thiết thực cho quốc gia. Thậm chí lại lỗ và trở thành gánh nặng quốc gia.
Các công trình càng lớn, các tập đòan càng to thì việc tham ô của công càng lớn. Khỏang cách giữa cán bộ giàu có và người dân nghèo khổ càng ngày càng mở rộng. Mọi đầu tư, mọi tập đòan, mọi kỹ nghệ lại tập trung vào các thành phố lớn đào sâu khỏang cách chênh lêch phát triển giữa nông thôn và thành thị. Khi kinh tế càng tăng tốc thì bất công, bất mãn, chống đối càng gia tăng và guồng máy chính trị phải sử dụng bạo lực trấn áp.
Vì áp dụng mô hình này tình trạng tại Việt Nam còn tệ hại hơn và như Việt Nam Trung cộng đã trở thành một trái bom chưa biết nổ lúc nào.
Chiến Tranh Kinh Tế Hoa Kỳ Trung Cộng
Việc Trung cộng kềm giá đồng Nguyên ảnh hưởng đến công ăn việc làm tại các quốc gia tiêu thụ hàng hóa nước này. Việt Nam cũng định giá thấp đồng tiền nhưng vì thiếu ngọai tệ nên ít khả năng hơn.
Theo ước tính so với Mỹ kim đồng Nguyên được định giá thấp hơn chừng 20 đến 40 phần trăm. Trong khi ấy đồng Việt lại chỉ trong vòng trên dưới 10 phần trăm. Đây chính là lý do hàng hóa Trung cộng đã giết chết nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Sống cạnh nước lớn các nhà họach định kinh tế luôn cần quan tâm đến mọi thay đổi của nước lớn. Vì các thay đổi này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến quốc gia của mình.
Ngày 11/10/2011 vừa qua, Thượng viện Mỹ bỏ phiếu thông qua Đạo luật giám sát tỷ giá giao dịch tiền tệ. Đạo luật này cho phép chính phủ Hoa Kỳ áp dụng thuế quan trên các sản phẩm nhập cảng vào Hoa Kỳ từ các nước định giá thấp đồng tiền của họ. Đạo luật này chủ yếu buộc Trung cộng phải tăng giá đồng Nguyên để cạnh tranh công bằng trên thị trường hàng hóa Hoa Kỳ. Nếu được Hạ Viện thông qua Đạo luật này sẽ làm giảm số lượng hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ, như thế sẽ giảm sản xuất, giảm nhân dụng và giảm mức độ tăng trưởng Trung cộng.
Việt Nam cũng định giá thấp đồng Việt nên cũng sẽ bị chi phối bởi Đạo Luật này. Trong vòng 5 năm qua, Trung cộng còn sử dụng Việt Nam như một cửa khẩu để chuyển hàng của họ ra thế giới tự do. Nhiều mặt hàng dán nhãn sản xuất tại Việt Nam nhưng thực ra là hàng hóa được sản xuất bên Tàu. Tình trạng này càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã cảnh cáo sẽ trừng phạt Việt Nam vì những gian dối nói trên.
Cho đến nay một số đại gia tư bản đỏ được đảng Cộng sản ban phát đặc quyền đặc lợi vì thế hàng hóa xuất nhập Việt Nam đều nằm trong vòng kiểm sóat của chúng. Bọn này lại ích kỷ chạy theo lợi nhuận cấu kết với ngọai nhân phá họai nền ngọai thương Việt Nam. Nếu bị Hoa Kỳ trừng phạt, chế độ cộng sản tại Việt Nam sẽ sớm sụp đổ. Chỉ khổ cho các doanh nhân lương thiện và đồng bào sống nhờ sản xuất các mặt hàng xuất khẩu.
Kinh Tế Việt Nam Một Nền Kinh Tế Khát Tiền
Trước năm 1990, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào ngọai viện và vay mượn từ khối cộng sản. Năm 1990, khi Liên Sô và Đông Âu sụp đổ đảng Cộng sản quyết định quay lại thuần phục Trung cộng, áp dụng mô hình phát triển Trung cộng, đồng thời dựa vào vay mượn và đầu tư quốc tế để sống còn.
Thủ Dũng chính là người đã được đảng Cộng sản giao trọng trách áp dụng mô hình Trung cộng vào Việt Nam. Thủ Dũng bắt đầu làm Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, phụ trách tài chính của đảng năm 1996. Sau đó được đưa lên giữ chức Phó Thủ tướng Thường trực và Chủ tịch Hội đồng Tài chính - Tiền tệ, kiêm chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Rồi Thủ Tướng đại diện đảng Cộng sản trong việc điều hành nền kinh tế Việt Nam.
Các lãnh đạo cộng sản trước đây mặc dù cũng lệ thuộc Trung cộng nhưng ít ra còn biết lắng nghe, còn nhận thấy mối đe dọa của Trung cộng, họ cũng chưa đến nỗi vô cảm để bịt mắt trước nỗi thống khổ của người dân và chưa dám công khai tuyên bố bán nước.
Trong lần tiếp Đại sứ Trung cộng Khổng Huyễn Hựu vừa qua, Thủ Dũng công khai tuyên bố “Việt Nam luôn ghi nhớ sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong xây dựng và phát triển kinh tế ngày nay.” Vốn ân sâu nghĩa nặng với Trung cộng, vốn thấm nhuần tư tưởng Trung cộng, thiếu trí tuệ lại mang bản chất độc tài Thủ Dũng đã biến Việt Nam thành một tỉnh nhỏ và nghèo của Tàu. Sau hơn một nhiệm kỳ Thủ Tướng, Tấn Dũng đã đạt những chỉ tiêu vĩ mô của một nền kinh tế khát tiền.
1, 2
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks