lịch sử việt nam
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
...
Văn Thư Gởi Thượng Viện Hoa Kỳ Về Hai Vụ Án Của Linh Mục Tadeus Nguyễn Văn Lý
Thưa quý vị và các bạn,
Trong số hơn 200 nhân vật nổi tiếng trên thế giới được giới thiệu để nhận lãnh Giải Nobel Hòa Bình 2012, theo giới truyền thông có 3 nhân vật Việt Nam có hy vọng được đăng ký là Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và Linh Mục Nguyễn Văn Lý. Về thành tích và tiểu sử, Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã được giới thiệu 4 lần (trong những năm 2002, 2007, 2008 và 2012) . Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế đã được Liên Hiệp Quốc công bố Nghị Quyết ngày 30-4-1993 lên án Nhà Cầm Quyền Hà Nội đã bắt giam độc đoán Bác Sĩ Quế năm 1991.
Tiếp theo đây chúng tôi xin tường trình về 2 vụ án tuyên phạt Cha Lý 15 năm và 8 năm tù trong những năm 2001 và 2007 để tùy nghi phổ biến.
Xin cám ơn.
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
VĂN THƯ GỬI THƯỢNG NGHỊ VIỆN HOA KỲ
VỀ HAI VỤ ÁN LINH MỤC TADEUS NGUYỄN VĂN LÝ.
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
I. VỤ ÁN THỨ NHẤT.
Ngày 9-11-2001 Hội Luật Gia Việt Nam tại California đã gửi văn thư tới Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ để tường trình về vụ án Linh Mục Tadeus Nguyễn Văn Lý, đồng thời thỉnh cầu Quốc Hội -qua Thượng Nghị Viện- biểu quyết Đạo Luật Nhân Quyền cho Việt Nam (dự luật này đã được Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ thông qua).
Trong dịp này Hội Luật Gia Việt Nam đã lưu ý các nghị sĩ về Luật Công Pháp (Public Law) số 103-258 ngày 25-5-1994 theo đó Quốc Hội Hoa Kỳ yêu cầu chính phủ Hà Nội:
1. Phóng thích tất cả các tù nhân chính trị.
2. Bảo đảm cho nhân dân Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt tín ngưỡng, chính kiến hay đoàn thể trong quá khứ.
3. Phục hồi các nhân quyền căn bản như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do di chuyển, tự do lập hội.
4. Bãi bỏ chế độ độc đảng.
5. Công bố một phương án và lịch trình tổ chức tổng tuyển cử tự do và công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để nhân dân Việt Nam dược hành sử quyền dân tộc tự quyết.
Theo nhận định của Hội Luật Gia Việt Nam thì trong các thập niên 1970 và 1980 Chính Phủ Hà Nội đã bắt giam độc đoán các tù nhân chính trị và tù nhân tôn giáo trong các trại tập trung mệnh danh là trại cải tạo mặc dầu các tù nhân lương tâm này không bị truy tố ra tòa.
Tháng 3-2001 Linh Mục Nguyễn Văn Lý đã gửi Bản Điều Trần đến Quốc Hội Hoa Kỳ và Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế để tố cáo chính sách đàn áp tôn giáo và chủ trương tiêu diệt tôn giáo có hệ thống của Chính Phủ Hà Nội.
Để trả đũa, ngày 19-10-2001, tòa án đã tuyên phạt Linh Mục Nguyễn Văn Lý 13 năm tù về tội “phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia”.
Tội vi phạm chính sách đoàn kết quốc gia trừng phạt những người gây chia rẽ giữa nhân dân và chính quyền nhằm phá hoại chính sách thống nhất quốc gia. Đây là một tội danh giả tạo. Nó đưa đến những giải thích quá bao quát và nhũng định nghĩa quá mơ hồ. Bất cứ hành vi tư tưởng nào khác biệt với đường lối chính sách của nhà cầm quyền đều có thể cấu thành tội này.
Trong chế độ đa đảng hay lưỡng đảng, những đường lối chính sách thường khác biệt và đối lập nên không thể có một chính sách quốc gia thống nhất. Đó là đặc tính của dân chủ đa nguyên để lựa chọn chính sách và lựa chọn lãnh đạo. Nếu đã không có sự thống nhất trong chính sách quốc gia thì cũng không có tội phá hoại chính sách đồn kết quốc gia.
Chiếu Điều 15 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự khi có những hành động không cấu thành một tội trạng hình sự chiếu luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế, luật pháp quốc tế là những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia”.
Trong hiện vụ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý chỉ đạo đạt thỉnh nguyện lên nhà cầm quyền, yêu cầu tôn trọng và thực thi quyền tự do tôn giáo. Quyền này được nhà cầm quyền cam kết bảo vệ trong Điều 70 Hiến Pháp.Vậy mà cha Lý đã bị kết án 13 năm tù. Đây hiển nhiên là sự bắt giữ và giam cầm độc đoán.
Ngoài ra, ngày 9-5-2001, chính quyền địa phương còn ra quyết định quản chế hành chánh cấm Cha Lý không được hành sử chức năng của một linh mục. Quyết định này hiển nhiên vi hiến. Căn cứ vào quyền tự do lập hội quy định trong Điều 69 Hiến Pháp và nguyên tắc tự trị của các hội đoàn, tư cách, chức năng và nghĩa vụ của vị linh mục chỉ có thể được quy định bởi Hội Đồng Giám Mục. Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh không có thẩm quyền về việc này chiếu Nguyên Tắc Biệt Lập giữa Tôn Giáo và Nhà Nước.
Ngày 17-5-2001, Cha Lý bị bắt giữ khi đang sửa soạn dâng thánh lễ buổi sáng cho các giáo dân. Do việc hành sử chức năng linh mục, Cha Lý đã bị truy tố về tội vi phạm quyết định quản chế hành chánh, và đã bị phạt thêm 2 năm tù, tổng cộng là 15 năm tù và 5 năm quản chế.
Dầu hứa hẹn thiết lập nhà nước pháp quyền, Chính Phủ Hà Nội vẫn chủ trương đảng trị thay vì pháp trị. Trong 20 năm qua, từ 1983 dến 2001 họ đã đi giật lùi trong mọi lãnh vực đặc biệt là lãnh vực tư pháp.
Chính phủ đã dùng tòa án làm công cụ để đàn áp các nhà tu hành. Những người này chỉ muốn được hành sử quyền tự do truyền giáo và hành đạo, tự do hội họp và lập hội, đặc biệt là quyền của giáo hội được sinh hoạt tự trị, không bị nhà nước xâm nhập hay lũng đoạn. Những quyền này đã được ghi trong Hiến Pháp Việt Nam cũng như trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Cơng Ước Dân Sự Chính Trị.
Cho đến nay Chính Phủ Hà Nội vẫn không tôn trọng nhân quyền và không tôn trọng Hiến Pháp do chính họ ban hành. Hiệp Ước Thương Mại Mỹ Việt chỉ có thể được thi hành nghiêm chỉnh nếu những quyền kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục và những quyền dân sự chính trị của người dân được tôn trọng và thực thi.
Vì những lý do nêu trên Hội Luật Gia Việt Nam tại California trân trọng thỉnh cầu Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Luật Nhân Quyền cho Việt Nam để làm áp lực buộc nhà cầm quyền Hà Nội phải tôn trọng Hiệp Ước Thương Mại Mỹ Việt, Luật Công Pháp ngày 25-5-1994 của Quốc Hội Hoa Kỳ cũng như các Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự Chính Trị và về Những Quyền Kinh Tế Xã Hội và Văn Hóa mà Việt Nam đã ký kết tham gia năm 1982.
Ngày 9-11-2001
T.M HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM TẠI CALIFORNIA
Chủ Tịch.
Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG
LETTER TO THE U.S. SENATE
The California Vietnamese Lawyers Association has sent to the Senate of the United States of America a letter reporting the case of Father Tadeus Nguyen Van Ly, and requesting the Senate to pass the Vietnam Human Rights Act which bill had been adopted by the House of Representatives.
On the same occasion the CVLA has brought to the attention of the U.S. Senators the Public Law 103-258 of May 25, 1994 by which the Congress urges the Hanoi Government:
1. To release all political prisoners;
2. To guarantee the right of equal protection under the law to all Vietnamese, regardless of religious belief, political philosophy, or previous associations;
3. To restore all basic human rights such as freedom of speech, religion, movement, and association;
4. To abolish the single party system;
5. To announce a framework and timetable for free and fair elections under the sponsorship of the United Nations that will allow the Vietnamese people to choose their own form of government.
The CVLA indicates that in the 1970’s and 1980’s, the Hanoi Government has arbitrarily arrested and detained political and religious prisoners in the so-called re-education camps, these prisoners of conscience were not even prosecuted or convicted.
In March 200l, Father Ly sent a testimony to the U.S.Congress and the U.S. Commission on International Religious Freedom to denounce the policy of religious repression and of systematic religious extermination waged by the Hanoi Government.
In retaliation, on October 19, 2001, the court sentenced Father Ly to 13 years imprisonment on the count of “undermining the national unity policy”. This offence punishes individuals who willfully promote disunity between people and the government, aiming to undermine the policy of national unity. It is but a false charge. It invites too broad interpretations and too vague definitions. Any act or thought different from the official policy can be ground for prosecution.
In a pluralistic or bi-partisan political system, policies are normally different or antagonistic. Therefore an unified national policy is not conceivable. This is the characteristic of a pluralistic democratic system allowing the free choice of policy and leadership. Given the factual impossibility of making a national unity policy, the charge of undermining the national unity policy does not make sense.
Pursuant to Article 15 of the International Covenant on Civil and Political Rights “no one shall be held guilty of any criminal offence on account of any act which did not constitute a criminal offence under national or international law at the time when it was committed, international law means the general principles of law recognized by the community of nations.”
In this case, Father Ly only submitted his petition to the goverment to request the observance of the freedom of religion guaranteed by Article 70 of the Vietnamese Constitution. Nevertheless, Father Ly was sentenced to 13 years in prison. This is an arbitrary arrest and detention.
Moreover, on May 9, 2001, the local authorities ordered Rev. Nguyen Van Ly not to perform his functions as a priest. This decision is anti-constitutional. Based on the freedom of association stipulated in Article 69 of the Vietnamese Constitution, the status, functions, and responsibilities of a priest can be regulated only by a Council of Bishops. The local People Committee has no competence in the matter according to the Principle of Separation of Church and State.
On May 17, 200l, Father Nguyen Van Ly was arrested when preparing for a morning service for his congregation. Since he was performing his duties as a priest, he was charged with violation of the local house-arrest decision and was sentenced to an additional 2 years in prison, making a total of 15 years imprisonment and 5 years house arrest.
Despite their promise to establish the system of rule of law, the Hanoi Government is still a party-ruled government with the monopoly of leadership reserved to the Communist Party. In the past 20 years, from 1983 to 2001, they have been going backward in many domains, primarily in the judiciary.
The government is using the court to repress the religious people who have no political ambitions. All they request is to exercise their freedom of religion, assembly and association, especially the right of the church to have autonomy, and to be free from the government’s interference and harassment. These rights are acknowledged by the Vietnamese Constitution, by the Universal Declaration of Human Rights and the International Covenant on Civil and Political Rights.
Thus far, the Hanoi Government has not respected human rights nor honored its Constitution. The U.S.-Vietnam Trade Treaty can only be carried out if the citizens’ economic, social, and cultural rights are respected and if their civil and political rights are observed.
For the above mentioned reasons, the California Vietnamese Lawyers Association requests the U.S. Senate to pass the Vietnam Human Rights Act which would provide a leverage to compel the Hanoi Government to honor the U.S.-Vietnam Trade Treaty, the Public Law of May 25, 1994 of the U.S. Congress, as well as the International Covenant on Civil and Political Rights to which Vietnam has adhered in 1982.
San Jose, California, November 9, 2001.
For the California Vietnamese
Lawyers Association, Inc.
Nguyen Huu Thong, Esq.
President
II. VỤ ÁN THỨ HAI VĂN THƯ GỬỹI THƯỢNG NGHỊ VIỆN HOA KỲ VỀ TỘI TUYÊN TRUYỀN CHỐNG NHÀ NƯỚC
Trong 30 năm, từ 1977 đến nay, Linh Mục Nguyễn Văn Lý đã bị bắt giữ và giam cầm tất cả 4 lần:
- Năm 1977 Cha bị chính quyền bắt giữ 4 tháng “vì có những hành vi tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa”.
- Năm 1983 Cha bị Tòa Thừa Thiên kết án 10 năm tù về tội “phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia”.
- Ngày 19-10-2001, một tháng sau vụ Đại Khủng Bố 11 Tháng 9, Đảng Cộng Sản Việt Nam lợi dụng thời cơ leo thang khủng bố và đã xử phạt Cha 15 năm tù về 2 tội “phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia” và “vi phạm quyết định quản chế hành chánh”.
Và ngày 30-03-2007, Cha lại bị kết án 8 năm tù về tội “Tuyên Truyền chống Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”.
Đây là một vụ đại hình nghiêm trọng về xâm phạm an ninh quốc gia mà hình phạt có thể đến 12 hay 20 năm tù.
Lịch sử tư pháp Việt Nam cho biết, trong những vụ án chính trị, tòa án thường tuyên những bản án tiền chế theo chỉ thị của Đảng Cộng Sản.
Kể từ thập niên 1990, trong 6 bản án chính trị: 1) bản án ngày 29-11-1991 phạt Bác sĩ Nguyễn Đan Quế 20 năm tù về tội phản nghịch hay âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân; 2) bản án ngày 19-10-2001 phạt Linh Mục Nguyễn Văn Lý 15 năm tù về các tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia và vi phạm quyết định quản chế hành chánh; 3) bản án ngày 08-11-2002 phạt Luật Gia Lê Chí Quang 4 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước; 4) bản án ngày 20-12-2002 phạt cựu chiến binh Nguyễn Khắc Toàn 12 năm tù về tội gián điệp; 5) bản án ngày 30-03-2007 phạt Cha Lý 8 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước, và 6) bản án ngày 11-05-2007 phạt các Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân 5 năm và 4 năm tù, có điểm tương đồng là tất cả 6 vụ án đều đã được xét xử vắn tắt trong mấy tiếng đồng hồ vào ngày thứ sáu cuối tuần. Mục đích để làm giảm thiểu phản ứng bất lợi của giới truyền thông, và làm nhạt chú tâm của quần chúng trong những ngày cuối tuần.
Tuyên truyền chống chế độ hay tuyên truyền chống nhà nước không cấu thành tội hình sự . Vì tuyên truyền chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu quan điểm. Cùng với quyền tự do lập hội và lập đảng, những quyền này đã được bảo vệ bởi các Điều 19 và 22 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, và bởi Điều 69 Hiến Pháp Việt Nam. Do đó bản án phạt Cha Lý vì có những hành vi tuyên truyền chống nhà nước đã hiển nhiên vi phạm hiến pháp quốc gia và công ước quốc tế.
Về tội tuyên truyền chống chế độ, giữa thế kỷ 19, khi Các Mác công bố bản Tuyên Ngôân Cộng Sản kêu gọi vô sản toàn thế giới đứng lên dùng võ trang lật đổ chế độ tư bản, ông ta cũng không bị Tòa Án Luân Đôn truy tố về tội tuyên truyền chống chế độ tư bản chủ nghĩa.
Sau cuộc Cách Mạng Dân Chủ 1989 tại Đông Âu, nhân loại văn minh đã vứt vào thùng rác lịch sử chế độ mệnh danh là xã hội chủ nghĩa. Cũng vì vậy Đảng CS Việt Nam đã giảo hoạt thay đổi tội danh, từ tuyên truyền chống chế độ (Điều 82 cũ) thành tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88 mới).
Tuyên truyền chống chế độ và tuyên truyền chống nhà nước là những tội danh giả tạo không tìm thấy trong các bộ hình luật của các quốc gia văn minh trên thế giới.
Chiếu Điều 15 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị “không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế, luật pháp quốc tế là những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia” (cụ thể là những nguyên tắc và mục tiêu ghi trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các Công Ước Quốc Tế do Liên Hiệp Quốc ban hành).
Theo bản cáo trạng Cha Lý bị truy tố về tội tuyên truyền chống Nhà Nước chiếu Điều 88 Khoản 1 Điểm (a) và (c) Hình Luật.
Điều 88 Khoản 1 Điểm (b) còn kết án tội “dùng chiến tranh tâm lý để tuyên truyền gây hoang mang trong nhân dân”. Đây là một tội lỗi thời, tàn tích của thời Chiến Tranh Lạnh. Người Cộng Sản thường lầm lẫn luật pháp với chính trị. Họ đã sáng chế ra những tội trạng giả tạo phi- pháp- lý như phản động, phản cách mạng, địa chủ, cường hào ác bá, xét lại chống đảng, biệt kích văn nghệ v...v... Đối với họ, chính trị là thống soái và luật pháp là công cu.ỉ Bộ Luật Hình Sự 1985 cũng xác nhận điều đó: “Trong hệ thống pháp luật của nước Cộng Hòa XHCNVN, luật hình sự là một công cụ sắc bén của Nhà Nước chuyên chính vô sản để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đấu tranh góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Trong chiều hướng đó Quốc Hội Cộng Sản đã ban hành những đạo luật hình sự quy định những tội trạng bịa đặt giả tạo và cưỡng ép lố bịch với những yếu tố cấu thành tội trạng hết sức bao quát và mơ hồ, như các tội tuyên truyền chống chế độ, tuyên truyền chống nhà nước, lợi dụng quyền tự do dân chủ, phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, phá hoại chính sách đoàn kết quốc tế, gián điệp, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền (phản nghịch ) v...v....
Việt Nam đã ký kết tham gia Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị năm 1982, nên có nghĩa vụ pháp lý phải tôn trọng và thực thi những điều khoản ghi trong Công Ước này. Chiếu Điều 2 Công Ước, các quốc gia hội viên tham gia Công Ước cam kết sẽ tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền tự do cơ bản đã được thừa nhận trong Công Ước cho tất cả mọi người sống trong lãnh thổ quốc gia. Trong trường hợp những quyền tự do ghi trong Công Ước này chưa được quy định thành văn trong luật pháp và hiến pháp quốc gia, các quốc gia hội viên ký kết hay tham gia Công Ước có nghĩa vụ phải ban hành các đạo luật bổ túc theo tinh thần và bản văn các điều khoản nhân quyền của Công Ước để các quyền này được thực sự thi hành. Trong trường hợp các quốc gia hội viên kết ước không quy định thành văn những quyền này trong luật pháp hay hiến pháp thì những điều khoản về nhân quyền và về những quyền tự do cơ bản của người dân ghi trong Công Ước vẫn có hiệu lực chấp hành và phải được áp dụng trước các tòa án quốc gia và quốc tế.
Hơn nữa, chiếu Điều 5 Công Ước Dân Sự Chính Trị, các quốc gia hội viên kết ước không được giải thích xuyên tạc các điều khoản trong luật pháp quốc gia và công ước quốc tế để làm những hành vi nhằm phủ nhận và tước đoạt của người dân những quyền tự do cơ bản đã được thừa nhận trên toàn cầu.
Tuyên truyền không phải là một tội hình sự, dù là tuyên truyền chống chính phủ, chống chế độ hay chống nhà nước. Đây chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu, quyền đối kháng, quyền tham gia chính quyền và quyền thay thế chính quyền bằng tự do tuyển cử chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết.
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền minh thị thừa nhận quyền đối kháng trong Phần Mở Đầu: “Điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ dân chủ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng phải đứng lên đối kháng chống áp bức và bạo quyền”.
Vì con người không phải là á thánh nên xã hội cần phải có chính quyền. Và vì nhà cầm quyền cũng không phải là á thánh nên luật pháp phải dành cho người dân quyền kiểm soát, đối kháng, chế tài và thay thế chính quyền. Nếu không có tự do tư tưởng, tự do thông tin, tự do phát biểu, phê bình và chỉ trích thì không thể có dân chủ. Nếu người dân không được quyền tự do tuyển cử để tham gia chính quyền và thay thế chính quyền thì đảng cầm quyền sẽ hủ hóa thành độc tài, tham nhũng, bất công hay bất lực.
Như vậy, tuyên truyền lên án nhà nước độc tài tham nhũng, bất công hay bất lực là những hành vi chính trị cần thiết trong một chế độ dân chủ pháp trị. Nó không cấu thành tội hình sự. Tại các quốc gia dân chủ, tòa án độc lập không kết án những hành vi tuyên truyền cho chủ thuyết cộng sản. Tòa cho đó chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu để cổ võ một lý thuyết chủ nghĩa về mặt trừu tượng (abstract doctrine). Chỉ khi nào có sự tổ chức lật đổ chính quyền bằng tập hợp võ trang, và thực sự có việc khởi sự hành động võ trang gây nguy hiểm rõ rệt và trước mắt cho an ninh quốc gia, thì đương sự mới bị truy tố ra tòa, không phải về tội giả tạo tuyên truyền chống nhà nước, mà về tội phản nghịch.
Tại các quốc gia dân chủ lấy Luật Quốc Tế Nhân Quyền làm kim chỉ nam, tòa án không truy tố người dân về những tội tuyên truyền chính trị, dầu là tuyên truyền chống chính phủ, chống chế độ hay chống nhà nước.
Vì những lý do nêu trên, nếu Vụ Án Linh Mục Nguyễn Văn Lý được đưa ra trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì Khối Công Tác về Giam Giữ Độc Đoán sẽ thụ lý. Và khi cuộc điều tra kết thúc, Liên Hiệp Quốc sẽ tuyên Nghị Quyết lên án sự bắt giữ và giam cầm Cha Lý là độc đốn.
Về thủ tục tố tụng.
Theo quan niệm phổ thông, thủ tục hay hình thức điều tra thẩm vấn là chị em sinh đôi của tự do. Nếu thủ tục bị vi phạm, tự do nhân thân sẽ bị vi phạm. Hồ sơ truy tố sẽ vô hiệu và Tòa Án sẽ miễn nghị bị cáo.
Bộ luật Hình Sự Tố Tụng Việt Nam trong phần mở đầu cũng nói: “Tác dụng của bộ luật này là để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”, công dân ở đây chủ yếu là công dân bị truy tố.
Trong hồ sơ hiện vụ những vi phạm về thủ tục tố tụng rất nghiêm trọng, khiến cho quyền biện hộ của bị cáo bị xâm phạm nghiêm trọng.
Vi phạm quyền của bị cáo được suy đoán là vô tội:
Chiếu Điều 14 Khoản 2 Công Ước Dân Sự Chính Trị “bị can được quyền suy đoán là vô tội cho đến khi có bằng chứng buộc tội theo luật”. Bộ Tố Tụng Hình Sự Việt Nam cũng đồng ý rằng chỉ các bằng chứng đã được thẩm tra tại phiên tòa mới có hiệu lực để buộc tội bị cáo. Do đó trong thời gian điều tra sơ vấn, bị can phải được coi là vô tội, và các cơ quan nhà nước, kể cả báo chí và các đài phát thanh, truyền hình, không được đưa ra các luận cứ ngụ ý kết tội bị can. Vì việc này sẽ gây ảnh hưởng và tiên kiến cho các thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong phiên xử, khiến cho tòa án mất đi tính cách vô tư và độc lập.
Trong các vụ án chính trị, các cơ quan truyền thông của chính phủ thường tố giác các bị cáo bằng những bài tường thuật và bình luận thiếu vô tư, để gán cho các bị cáo những tội trạng đã định sẵn.
Việc vi phạm quyền suy đoán vô tội dành cho bị cáo, sẽ có tác dụng vô hiệu hóa mọi cuộc điều tra thẩm vấn, khiến cho bản án kết tội trở thành vi luật.
Vi phạm quyền biện hộ của bị cáo:
Điều 14 Khoản 3 Công Ước Dân Sự Chính Trị dành cho các bị cáo quyền được có luật sư biện hộ do chính họ lựa chọn, quyền được có đủ thời gian để liên lạc với luật sư và chuẩn bị hồ sơ biện hộ.
Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam, các bị cáo bị truy tố về các tội xâm phạm an ninh quốc gia (như phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia hay tuyên truyền chống nhà nước) không được quyền nhờ luật sư biện hộ khi cuộc điều tra chưa kết thúc. Đây là một điều nghịch lý (anomaly). Vì nếu phải chờ cuộc điều tra kết thúc rồi mới nhờ luật sư thì quá muộn. Chỉ cần viện dẫn điều này cũng đủ để giải thích tại sao Bộ TTHS Việt Nam đã vi phạm Điều 14 Công Ước Dân Sự Chính Trị, theo đó “mọi người đều được bình đẳng trước tòa án, được nhờ luật sư biện hộ do họ lựa chọn, được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và vô tư và được quyền có đủ thời gian và phương tiện để liên lạc với luật sư và chuẩn bị sự biện hộ.
Trong vụ án Cha Nguyễn Văn Lý không có luật sư biện hộ và Cha đã bị công an bịt miệng thô bạo để tước đoạt quyền phát biểu. Do những vi phạm về thủ tục nói trên, bản án kết tội Cha Lý phải bị coi là vô hiệu.
Hơn nữa về nội dung, Cha Lý khơng thể bị kết tội tuyên truyền chống nhà nước, một tội giả tạo về vi phạm an ninh quốc gia, trong khi những hành vi của Cha không cấu thành tội hình sự chiếu luật pháp quốc gia (Điều 69 Hiến Pháp) và luật pháp quốc tế (các Điều 18 và 19 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị) mà Việt Nam đã ký kết tham gia năm 1982 nên có nghĩa vụ phải tôn trọng.
Ngày 23-5-2007
Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG
Chủ Tịch Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ
Dân Quyền
COMMUNICATION TO THE U.S. CONGRESS
ON THE OFFENSE OF ANTI-STATE PROPAGANDA
Over the past 30 years, Father Nguyen Van Ly has been imprisoned four times altogether:
1. In 1977, he was detained for four months by the Vietnamese Administration for “propaganda against the socialist regime”.
2. In 1983, he was sentenced by the Court to 10 years in prison for “sabotage of the national unity policy”.
3. After 9-11, in October 200l, The Vietnamese Communist Party escalated its repression and condemned him to 15 years in prison for “sabotage of the national unity policy” and “violation of the administrative internment decision”.
4. And on March 30, 2007, he was sentenced to eight years in prison for “propaganda against the Socialist Republic of Vietnam”.
Those are serious crimes of violation of national security with prison terms up to 12 or 20 years. Yet, the guarantees necessary for the defense were not observed. The Vietnamese Government has adopted the inquisitory system in which the judges act as prosecutors and the proceedings are conducted secretly. In those cases, the investigations and reports have been made without the presence and counseling of independent attorneys. At the hearing, Father Ly and his four associates could not defend themselves in person or through legal assistance. The hearing was opened at 8AM and the judgement was pronounced at noon after four hours of testimony and deliberation.
A study of the judiciary history of Vietnam reveals that, in political trials, the courts have tended to hand out predetermined sentences under the directives of the Communist Party.
Since the 1990s, the following six political trials:
1. The verdict of November 29, 1991 sentencing Doctor Nguyen Dan Que to 20 years in prison for rebellion or having activities aimed to overthrow the people’s government;
2. The verdict of October 19, 2001 sentencing Father Nguyen Van Ly to 15 years for sabotage of the national unity policy and violation of the administrative internment decision;
3. The verdict of November 8, 2002 handing Lawyer Le Chi Quang a four-year sentence for anti-state propaganda;
4. The verdict of December 20, 2002 condemning Veteran Nguyen Khac Toan to 12 years for espionage;
5. The verdict of March 30, 2007 sending Father Ly to prison for eight years for anti-state propaganda; and
6. The verdict of May 11, 2007 sentencing Attorneys Nguyen Van Dai and Le Thi Cong Nhan to five and four years respectively, for the same offense.
Show striking similarities in that all six cases were judged summarily in just a few hours and on Fridays. The clear intention was to minimize the reaction of the mass media and to divert the attention of the general public in the upcoming weekend.
Propaganda against the regime or propaganda against the state does not constitute a crime. Propaganda is merely the exercise of the right to freedom of opinion and freedom of expression. Together with the freedom of association, specifically the right to form opposition parties and independent trade unions, these rights are protected by Articles 19 and 22 of the ICCPR, and by Article 69 of the Vietnamese Constitution. Therefore, the sentences against Father Ly and associates have clearly violated the national constitution and the international covenant.
Propaganda against the regime and propaganda against the state are both fictitious crimes nonexistent in the penal codes of civilized nations around the world.
Pursuant to Article 15 of the ICCPR “no one shall be held guilty of any criminal offense on account of any act which did not constitute a criminal offense, under national or international law, [where international law means] the general principles of law recognized by the community of nations”.
Regarding the crime of propaganda against the regime, in the mid- 19th century, when Karl Marx issued the Communist Manifesto calling on the proletariat around the world for an armed uprising to overthrow capitalist governments, he was not prosecuted by the Court in London for the crime of propaganda against the capitalist regime.
Following the Democratic Revolution in Eastern Europe, in the 1990’s, human civilization has thrown off into history the so-called socialist regime. For this reason, the Vietnamese Communist Party has changed the name of the offense, from propaganda against the regime (former Article 82) to propaganda against the state (new Article 88).
In his indictment Father Nguyen Van Ly was charged with the crime of propaganda against the state pursuant to Article 88, Section 1, Items (a) and (c) of the Penal Code. He was held responsible for “defaming the state, and for slanderous acts against the government through distorted propaganda and the storage and distribution of documents attacking the authorities”.
Article 88, Section 1, Item (b) also condemns as anti-state propaganda any political act of “using psychological warfare to spread confusion among the people”. This is an obsolete crime, a vestige of the Cold War. The Communists consistently confuse the law with politics. They have invented fictitious non-judiciary crimes, such as being reactionary, anti-revolutionary, wicked landlord, capitalist comprador, anti-party revisionist, anti-communist writer or artist etc. For them, politics comes first and the law is but a tool. The Penal Code of 1985 confirms this fact: “In the legal system of the Socialist Republic of Vietnam, the criminal law is a sharp instrument to consolidate the dictatorship of the proletariat and to protect the socialist regime”.
With this frame of mind, they have promulgated penal codes establishing false, fictitious, coercive, and preposterous crimes, with overbroad and vague incriminating elements, such as the crimes of anti-socialist propaganda, anti-state propaganda, abusing the democratic freedoms, sabotaging the policy of national unity, sabotaging the policy of international unity, espionage, rebellion or having activities aimed at overthrowing the government, etc.
In 1982, Vietnam became a State Party of the ICCPR, and, therefore has a legal obligation to respect, adopt and enforce the provisions stipulated in the Covenant.
Pursuant to Article 2 of the Covenant “each State Party to the present Covenant undertakes to respect and to ensure to all individuals within its territory the rights recognized in the present Covenant. Where not already provided for by existing legislative measures, each State Party undertakes to adopt such laws and to give effect to the rights recognized in the present Covenant”.
For those States Parties that do not adopt such provisions in their national laws or constitutions, the articles on human rights and fundamental freedoms protected by the Covenant shall have full force and credit in national and international courts.
Furthermore, pursuant to Article 5 of the Covenant “nothing in the present Covenant may be interpreted as implying for any State any right to engage in any activity or perform any act aimed at the destruction of any of the rights and freedoms recognized herein.”
Political propaganda is not a crime, even if it is propaganda against the government, the regime, or the state. It is merely the exercise of the freedom of thought and opinion, the freedom of expression, the right to opposition, the right to participate in government, and the right to change the government through free and fair elections according to the Principle of People’s Self-Determination, by which “the will of the people shall be the basis of the authority of government”. This principle is acknowledged by Article 21 of the Universal Declaration of Human Rights (UDHR), Article 1 of the United Nations Charter, and Article 1 of the ICCPR.
Concerning the right to freedom of peaceful assembly and association, there are no political conspiracies in countries dedicated to political freedom and free expression of ideas and information, how distasteful they may be. The only activities not protected by the ICCPR are political gatherings to incite the violent overthrow of the government by arms.
Because individuals are not saints, society needs a government. And because those who hold power are not saints, citizens need the right to control, oppose, sanction, and replace the government. Without the freedom of opinion, the freedom of expression, of discussion and criticism, democracy cannot exist. If people do not have the right to free election in order to participate in government and to replace the government, then the party in power will become dictatorial, corrupt, unjust, or incompetent.
Therefore, political propaganda to denounce a government that is dictatorial, corrupt, unjust, or incompetent is a necessity in a multi-party democratic system. Such propaganda is not a crime. It is a right. In cases where this right is protected by the rule of law, independent courts do not condemn and confiscate communist publications which constitute, in essence, propaganda against the capitalist regime and state. The court considers such activities as the exercise of the freedom of opinion, and the freedom of expression to debate doctrines in the abstract. Only when there are organized armed movements to overthrow the government, with a beginning of execution that represents a real and present danger to the national security, will the activists be prosecuted, not for the false crime of propaganda against the state, but for rebellion.
Together with the right to freedom of opinion and freedom of expression, the right to opposition or the resistance to oppression has been acknowledged in the Preamble of the UDHR: “The disregard and contempt for human rights have resulted in barbarous acts which have outraged the conscience of mankind. And, it is essential, if man is not to be compelled to have recourse, as a last resort, to rebellion against tyranny and oppression, that human rights should be protected by the rule of law.”
The Declaration of The Rights of Man and Citizen of 1789 declares: “Men are born and remain free and equal in rights. The aim of every political association is the preservation of the natural and imprescriptible rights of man. These rights are liberty, property, security, and resistance to oppression. The free communication of ideas and opinions is one of the most precious of the rights of man”.
The Declaration of Independence of 1776 asserts:
“We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable rights, that among these are life, liberty and the pursuit of happiness. That to secure these rights, governments are instituted among men, deriving their just powers from the consent of the governed. That whenever any form of government becomes destructive of these ends, it is the right of the people to alter or to abolish it, and to institute new government, laying its foundation on such principles and organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect their safety and happiness.
When a long train of abuses and usurpations evinces a design to reduce [the people] under absolute despotism, it is their right, it is their duty, to throw off such government, and to provide new guards for their future security.”
In its Joint Resolution of May 5, 1994, the Congress of the United States “urges Hanoi to release all political prisoners; to restore all basic human rights, such as freedom of speech, religion, movement, and association; to abolish the single-party system and permit the functioning of all political organizations without intimidation or harassment.”
For the reasons mentioned above, if the case of Father Nguyen Van Ly is submitted to the Council for Human Rights at the United Nations, then the Working Group on Arbitrary Detention will handle the case. And at the conclusion of the investigation, The United Nations should hand out a resolution denouncing the detentions of Father Thadeus Nguyen Van Ly as arbitrary.
May 23, 2007
Nguyen Huu Thong
Attorney at Law Lawyers Committee for People’s Rights
Weblinks :
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks