lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Trí-Lực:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Thư-Viện Bồ Đề Online

Xiển-Dưong Chánh Tín_Bài Trừ Mê-Tín Dị Đoan 

Phật-Giáo Việt-Nam Với Quốc-Học

Nguyễn-đăng-Thục

Tụ cổ lai, ở Đông cũng như ở Tây vấn đề giáo-dục vẫn được các phần tử ưu thời mẫn thế lấy làm trọng-tâm xây dựng một xã-hội lành mạnh, một nhân-loại hạnh-phúc.

Nhưng không bao giờ như ngày nay trên khắp thế-giới vấn-đề giáo-dục lại được giới trí-thức đặt lên hàng đầu trong các vấn-đề nan giải khó khăn của thế-giới. Từ trận thế chiến thứ hai đang còn kéo dài cảnh thú tính của con người trên bán đảo Đông-Dương này, đã có biết bao ý-kiến về một nền giáo-dục hoàn-hảo nhằm mục-đích giải-quyết hay trị-liệu bệnh-hoạn khủng-hoảng của xã-hội nhân-loại đứng trước kỹ-thuật khoa-học tiến-bộ quá mau lẹ, đi đôi với sự nổi dậy mãnh-liệt các bản-năng cầm thú của con người. Bởi thế mà các tư-tưởng-gia trứ danh thế-giới đã cố tìm môn thuốc để trị-liệu con người, ngõ hầu xây dựng một tương-lai lành mạnh. Môn thuốc ấy là văn-hóa giáo-dục hay là giáo hóa như danh-từ Hán Việt thường dùng .

Nhà triết-gia và giáo hóa có tiếng thế-giới hiện-đại Alfred North Whitehead mở đầu tác-phẩm " The Aims of Education " ( Những Mục- tiêu của Giáo-dục ) đã viết :

" Culture is activity of thought, and receptiveness to beauty and human feeling. Scraps of information have nothing to do with it. A merely well informed man is the most useless bore on God's earth. What we should aim at producing is men who possess both culture and expert knowledge in some special direction. Their expert knowledge will give them the ground to start from, and their culture will lead them as deep as philosophy and as high as art".

(Văn-hóa là hoạt-động của tư-tưởng, và là sự thâu hóa mỹ-cảm và tình- cảm nhân-loại. Những mảnh vụn trí-thức kiến văn không quan-hệ chi đến văn-hóa. Một người chỉ rất thông thạo kiến thức là một mối bận tâm thậm vô ích trên mặt đất thiêng-liêng này. Điều chúng ta nhằm đào tạo là hạng người đầy đủ cả văn-hóa lẫn trí-thức chuyên-nghiệp về một khuynh-hướng đặc-biệt. Trí-thức chuyên-môn của chúng sẽ đem lại cho chúng đất đứng để dùng làm khởi điểm và trình-độ văn-hóa của chúng sẽ dẫn chúng đi sâu vào triết-lý và vươn cao lên đến nghệ-thuật).

Hai chữ Văn-Hóa ( Culture ) trên đây của tác-giả ngụ có giáo-dục bên trong, như tác-giả đã viết là : " mục-tiêu của giáo-dục là khích khởi và hướng dẫn sinh-viên tự mở mang, tự khai hóa " ( the purpose of education is to stimulate and guide their self development ). Bởi vì theo nghĩa đen của chữ Văn-hóa ở Hán Việt là biến hóa nên văn vẻ tốt đẹp cũng như ở chữ Pháp là ( Cultiver : vun trồng làm cho nẩy nở ). Vậy thì giáo-dục theo triết-gia và giáo-dục gia Whitehead là giáo hóa, tức là một nền giáo- dục hoàn hảo lành mạnh phải thức tỉnh ở thanh-niên cái khả-năng vừa trí- thức lẫn đạo-đức và nghệ-thuật, làm sao cho mỗi thanh-niên tự nó khai phóng bản-tính toàn diện tiềm tàng bên trong, chứ không phải chỉ đem lại những mẩu kiến-thức chuyên-môn để rồi bị bóp méo vì nghề-nghiệp. Bởi thế mà Bác sĩ Charles Provost ở nước Pháp mới đây cũng phê bình về cái học mảnh múng chuyên-môn như sau :

" Tự mãn-nguyện với mảnh bằng thi cử, dù sự thi cử ấy có khó khăn đến mấy đi nữa, thì sự thực là một sự sai lầm tai-hại, một sự thất-vọng phải trả với một giá đắt. Ngoài cái học rộng biết nhiều, còn có cái gì cần cho quốc- gia hơn nữa, ấy là một nhân-cách, một bản-lĩnh ".

Và gần đây, trong một cuộc hội-thảo về các phương-diện của " Xã-hội Khai-phóng " ( Opened Society). Bác-sĩ Alan Willard Brown cũng đề- nghị về nền " Giáo-dục trong một Xã-hội Khai-phóng " ( Education in an Open Society ) .

" Personal freedom is one of the chief characteristics of open societies. What is the meaning of this freedom ? It means primarily the inner freedom – freedom of conscience, freedom of thought, freedom of speech...
" Our faith in history is a faith in what man may become....

" Education is regarded by all who respect human dignity as a most powerful instrument for the realisation of individual freedom and the surest guarantor of an open society ".

(Tự-do cá-nhân là một trong những đặc-trưng chính của xã-hội khai- phóng. Ý nghĩa của tự-do ấy là gì ? Nó có nghĩa trước hết là tự-do nội tâm – tự-do tâm-hồn, tự-do tư-tưởng, tự-do ngôn-luận ...

(Tin-tưởng của chúng ta vào lịch-sử là một tin-tưởng vào người ; tin- tưởng vào giáo-dục là một tin-tưởng vào sự thành-tựu con người ...

(Giáo-dục đối với tất cả ai tôn trọng nhân-phẩm thì được coi như là một công-cụ hữu hiệu nhất để thực-hiện tự-do cá-nhân và như là bảo-đảm chắc chắn nhất cho một xã-hội khai-phóng). ( Xã-Hội Khai-Phóng, James Allen )

Lịch-sử giáo-dục Âu Tây nguyên lai từ thời cổ điển Hy-Lạp với Socrate, Platon và Aristote. Cả ba triết-gia tìm đối phó với trào lưu tư-tưởng đương thời hoành hành trong xã-hội, ấy là trào lưu " ngụy biện " ( Sophisme ), nó đề cao chủ-nghĩa hoài-nghi cực-đoan với khẩu-hiệu " Người là mực thước cho tất cả sự vật " ( L'Homme est la mesure de toutes choses ). Do đấy mà Socrate đầu tiên tìm cứu vãn tệ đoan đương thời bằng cách gọi về chân-lý nhân-sinh cộng-đồng với danh ngôn " Tri ngã tự thân " ( Connais toi toi même ). Nhưng phương-pháp giáo-dục của Socrate cũng còn tiếp tục phương-pháp của phái ngụy-biện. Kịp đến đệ tử trứ danh là Platon mới xây dựng cả một lý-thuyết về giáo-dục cho một " Lý tưởng quốc " ( La République ) trong đó một chế-độ giáo-dục được thi-hành, đem mỗi đứa trẻ thoạt sinh ra phải giao cho đoàn-thể quốc-gia, đoạn tuyệt hẳn với liên- hệ gia-đình cha mẹ để cho cơ-quan công cộng huấn luyện thành một công- dân lý-tưởng của quốc-gia theo kiểu " Cộng-hòa " ( République của Platon ). Nước " Cộng-hòa " lý-tưởng của Platon đem người dân phân biệt thiên-tính khác nhau kể từ tuổi thanh thiếu niên qua sự trắc nghiệm và khảo thí của nhà nước, để xếp vào hạng chuyên-môn như triết-học-gia, quân-nhân, thương-nhân, nông-dân v.v... Vai trò lãnh đạo các nước Cộng Hòa ấy dành riêng cho triết-học-gia vì " triết-học-gia chân chính luôn luôn ngắm nhìn vào những nguyên-lý bất-biến, sẽ uốn nắn quốc-gia theo hình ảnh thiên đường ". Đấy là một nước thực-hiện lý-tưởng của triết-học. Tất cả chính sách giáo-dục của Platon là phối hợp với cái lý-tưởng triết-học ấy .

Người thừa kế tư-tưởng giáo-dục của Platon là triết-gia Aristote với học- thuyết trứ danh " Nhân-loại là một động-vật chánh-trị " vì nhân-loại khác với động-vật khác ở điểm hiểu biết chính-trị, cần tham gia chính-trị cho nên giao-dục của một nước nên phối hợp với chính-thể quốc-gia của nước ấy. Đấy là đại-khái tinh-thần giáo-dục của ba đại gia tư-tưởng cổ điển Tây- phương rất có ảnh-hưởng về sau ở Âu-Tây : Socrate với chủ-trương giáo- dục " đỡ đẻ linh-hồn ". Platon với chủ-trường giáo-dục " đào tạo công- dân cho nước Cộng-hòa lý-tưởng " và Aristote với chủ-trương phối hợp giáo-dục với chính-thể quốc-gia. Cả ba nhà muốn lấy giáo-dục để cứu vãn cái thời bệnh đương thời của Hy-Lạp là tư trào ngụy-biện và chủ-nghĩa cá- nhân cực-đoan .

Sau này, vào thời Trung-cổ, giáo-dục Tây-phương hoàn toàn trong tay Giáo-hội Cơ-Đốc, đặt lý-tưởng vào nước Thiên đường ngoài trần-gian thế- tục. Kịp đến thời Cận-đại, các quốc-gia thành lập bấy giờ mới bắt đầu nổi lên phong-trào quốc-dân giáo-dục, các chính-phủ quốc-gia tranh cướp lấy quyền giáo-dục quốc-dân trong tay Giáo-hội. Giáo-dục chuyển lấy quốc- gia làm tiền-đề, mỗi chính-phủ quốc-gia Cận-đại xác định chế-độ giáo-dục để nuôi thành quốc-dân của mình, quyết định lấy phương châm hữu hiệu, đấy lại là một thứ giáo-dục đòi thực hiện đường lối của Hy-Lạp theo lý- tưởng của Platon và Aristote vậy.

Giáo-dục của Tây-phương, ngoài giáo-dục của Giáo-hội và Quốc-gia trên đây, sớm còn có một loại giáo-dục cá-nhân tự-do và thế-học, đấy là mục tiêu của giáo-dục đại-học chuyên truyền bá trí-thức, tìm tòi chân-lý để rồi đi đến mục-tiêu kỹ-thuật và chức nghiệp. Tự-do trí-thức và chức nghiệp chuyên-môn đưa đến sự phân ly giữa người với người, bởi vì người ta sinh ra vốn không tư-do. Bởi thế mà giáo-dục tự-do cá-nhân đưa đến tự-do cạnh tranh, tự-do cạnh tranh đưa đến oán hận cho đa số thất-bại. Xã-hội oán hận biến thành tâm-lý đố kỵ, kẻ thất-bại đả-đảo kẻ thành-công. Bởi thế mà tự-do cá-nhân là một tiền-đề sai lầm, nếu không có giới-hạn cho sự tự- do. Nhưng ở Tây-phương ngoài giáo-dục tự-do cá-nhân còn có giáo-dục tôn-giáo và giáo-dục quốc-gia nữa. Nhờ cái phong khí tín-ngưỡng, cái tâm- lý tập-quán di-truyền mà dù khoa-học phát triển cực-độ nhân-dân cũng không xa lìa hẳn được tôn-giáo để tha hồ trước hình ảnh Thượng-Đế người với người không phân biệt sang hèn, thành bại, trí ngu, để thông cảm với nhau trên bình-diện nhân-loại. Do đấy mà nền giáo-dục Tây- phương ngày nay, phân ra ba loại lớn : giáo-dục tôn-giáo, giáo-dục quốc- gia, giáo-dục tự-do cá-nhân hay là trí-thức chuyên-nghiệp, ba loại phối hợp mới có được công hiệu. Bỏ giáo-dục tôn-giáo tín-ngưỡng đi, như ở các nước theo chế-độ thế-học hoàn toàn, người ta sẽ thấy như các nước dưới chế-độ chỉ-huy khống-chế, mà xã-hội hoàn toàn thành xã-hội đóng cửa, bế-quan vậy. Đấy là thế-giới bên trong bức tường sắt hay Vạn lý Trường thành của các chế-độ chính-trị độc-tài .

Dân-tộc Việt-Nam sinh-trưởng trên đất Giao-Chỉ, nơi gặp gỡ các trào-lưu văn-hóa phức tạp khác nhau cho nên sớm đã ý-thức một triết-lý giáo-dục nhân-bản khai phóng ở " Nam giao học tổ " nghĩa là Ông tổ giáo-dục đất giao lưu phương Nam là Sĩ-Nhiếp vào thế kỷ II C.N. có hiệu là " Sĩ Vương Tiên ". Sĩ-Nhiếp tuy gốc tích nước Lỗ bên Tầu nhưng đã sáu đời sinh-trưởng ở đất Giao-Chỉ, cho nên tinh-thần giáo-dục của ông phản chiếu hoàn-cảnh bản xứ, nơi giao lưu của các dân-tộc và văn-minh, (Cross road of Peoples and Civilisation, _ O. Jansé, France - Asie, N° 165 - janv. Fev. 1961 ).

Lời chiếu của Vua Hán Hiến-Đế phong ông làm Thái-Thú Giao-Châu rằng :

" Giao-Châu là đất văn-hiến, núi sông hun đúc, trâu bảo rất nhiều, văn vật khả-quan, nhân-tài kiệt xuất ."

Và Thượng-thư Lệnh Tuân Úc đương thời ca-tụng :

" Sĩ Phủ Quân ở Giao-Châu, học-vấn uyên-bác lại thạo về chính-trị... Oai trọng tột vời. Ra vào chuông khánh vang lừng, đủ cả uy nghi, kèn sáo trống phách, xe ngựa rợp đường, các Sư Hồ đi bên xe đốt trầm".

Đời sau ca tụng tinh-thần giáo hóa của Sĩ-Nhiếp bằng bốn chữ treo ở đền thờ " Nam giao học Tổ " và câu đối :

" Sóc điện văn tông Tứ thù hậu
Nam giao học Tổ Lạc Mân tiên
"
(Dòng văn học phương Bắc sau nước Lỗ Tổ giáo hóa Giao-Châu phương Nam, trước đất Lạc và đất Mân ).

Cái tinh-thần giáo học ấy là :

" Vua Sĩ-Vương học tập trào lưu phong-tục nước Lỗ, học thức rộng mở, nhún-nhường quên mình đối với kẻ Sĩ, biến hóa phong-tục của nước bằng tinh-thần Thi, Thư, lấy tinh-thần Lễ, Nhạc để làm cho lòng người thuần- thục, cai-trị nước hơn bốn mươi năm, trong nước không xẩy ra việc rối loạn ". ( Việt Giám thông khảo tổng luận )

" Vua Sĩ phủ Giao-Chỉ đã cao rộng về đường học vấn, lại đạt về đường chính-trị, ở vào thời loạn mà bảo toàn được một quận hơn hai mươi năm, khiến cho biên-giới không có việc biến loạn, nhân-dân không thất-nghiệp, những người lánh nạn lưu vong được hưởng ân huệ, dù đến Đậu-Dụng giữ Hà-Tây cũng không hơn được. Khi việc nước được chút rảnh, ông ta liền học tập sách Thư, sách Truyện, sách Xuân Thu Tả Truyện càng phân tích tinh-vi. Tôi nhiều lần từng đem các điều còn ngờ trong Truyện để hỏi han, thì đều được giải-thích dạy bảo, ý tứ rất thâm-thúy. Lại về sách Thượng Thư thì ông kiêm thông cả nghĩa cổ văn và kim văn, hiểu rõ nghĩa lớn chính-trị vương-đạo. Ông thấy ở kinh-đô nhà Hán bấy giờ sự học vấn về kim văn, cổ văn đang tranh-biện phải trái rối bời, ông muốn điều-chỉnh lại sách Tả Truyện, Thượng Thư, lấy ý nghĩa lớn sở-trường để nêu ra ". ( Tam Quốc Chí, q. 49. Ngô Chí. 4 ._ Sĩ-Nhiếp truyện )

Đấy là tinh-thần Nho-học khai-phóng và thực-hiện của ông Tổ giáo học đất Nam-Giao " Nam-Giao Học Tổ ", với cái học " bác hiệp " như sử-gia Tầu gần đây nhận định : " Sĩ-Nhiếp tìm kết nạp với trí-thức có tiếng, vốn không giới-hạn vào trong giới trí-thức Nho-học ".

Bởi thế mới có các nhà Sư Phật Ấn-Độ đưa đón trịnh-trọng như thế mỗi khi ra vào, và nhất là cái danh-hiệu Sĩ-Vương-Tiên đời sau nhân-dân Việt-Nam truy tặng phụng thờ. Chứng tỏ cái tinh-thần giáo học của ông dung hợp cả con người xã-hội do chữ Vương đại-diện và con người thiên-nhiên do chữ Tiên đại-diện. Đáng chú ý hơn nữa là cái tư-tưởng khai-phóng ấy đã được chứng minh bằng tinh-thần hợp-tác bổ-túc hỗ-tương giữa hai truyền-thống tư-tưởng tôn-giáo mâu-thuẫn với nhau như Nho-giáo và Phật-giáo, một đàng chuyên chú vào con người xã-hội luân-lý, một đàng chuyên chú vào con người tâm-linh giải thoát. Hai truyền-thống ấy hợp nhất trên đất Giao-Chỉ, nơi Kinh-đô đầu tiên của nước Việt là Bắc-Ninh ngày nay. Chính là để đáp ứng nguyện-vọng của dân-tộc nông-nghiệp, do điều-kiện địa-lý và lịch-sử đã tạo nên và quyết-định trong sổ Trời như Lý-Thường-Kiệt đã tuyên bố :

" Nam quốc sơn hà Nam-Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
"

Nhưng đây cũng là do ý muốn của người đòi hỏi sống một đời sống có lý- tưởng của một nhân-bản đầy đủ cả vật chất lẫn tinh-thần, có nhân cách của một người dân trong một nước độc-lập, tự chủ. Cái lý-tưởng ấy chỉ phải tìm trong giáo-lý hợp nhất giữa Phật và Nho, vì Nho-học là cái học về tổ- chức đời sống quốc-gia xã-hội thực-tế, còn Phật-học đem lại cho đức tin vào giá-trị vĩnh-cửu của con người tâm-linh không thể thiếu được. Bời thế mà Thiền Sư nhà Lý là Cửu-Chỉ mới nói :

" Khổng-học và Mạ-học giữ thuyết thế-gian có thật. Trang-học và Lão-học lại thuyết là không có. Cả hai đều là kinh điển thuộc về tục-thế, không phải là phương-pháp giải thoát. Chỉ có Phật-giáo, không chấp vào có và không có, mới giải-quyết được vấn-đề sống chết. Song cách tu-trì phải tinh tiến, cầu bậc hiền-trí ấn-chứng cho mới được ". ( Thiền Uyển Truyền Đăng Tập )

Vấn-đề sống chết không ai không nghĩ đến, để chỉ biết sống có đời sống thực-tế trước mắt mà được. Gạt vấn-đề sống chết ra ngoài học hỏi như Khổng-Tử đã đáp câu hỏi của đệ-tử rằng " Chưa biết sống thì hỏi đến sự chết làm gì !" Tuy là thực-tế nhưng không thể làm cho người đời thỏa- mãn được, nhất là đại chúng nông-dân vốn tín-ngưỡng vào linh-hồn bất diệt, và sùng bái Tổ-Tiên .

Bởi những lý do trên mà dân-chúng đã tự động suy tôn người con Phật họ Lý, là Lý-Phật-Tử để lãnh đạo cuộc giải phóng dân-tộc khỏi ách đô hộ ( thế kỷ thứ sáu ). Và Vua Lý-Phật-Tử đã giữ được nước độc-lập lần đầu tiên suốt sáu mươi năm. Đấy là triều Tiền Lý. Đến triều Hậu Lý sau này, Vua Lý-Thánh-Tông cũng đã kết hợp ngành tín-ngưỡng sùng-bái của nông- dân với ngành tín-ngưỡng của trí-thức lãnh đạo thành một tôn-giáo Thảo-Đường, tin thờ Phật Quan-Âm ở Chùa Một-Cột. Đồng thời cũng xây Văn miếu để thờ Thánh-hiền, Khổng-Nho, Chu-Công, Khổng-Phu-Tử. Đấy là bắt đầu Tam-giáo trở nên ý-thức-hệ dân-tộc của nước Đại-Việt và giáo-dục quốc-gia cũng lấy triết-lý Tam-giáo làm kim chỉ nam đào tạo nhân-tài hữu-dụng cho xã-hội .

Gọi là Tam-giáo nhưng trọng tâm là nhờ có tâm-linh của Phật mới siêu việt mà bao hàm được cả hai khuynh-hướng mâu thuẫn chống đối tự cổ lai trong tư-tưởng nhân-loại. Chỉ có tâm-linh Phật mới giải quyết được viên- mãn cuộc xung đột giữa xã-hội và thiên-nhiên, luân-lý và tự-do, mà ở Á-Đông Nho-giáo và Lão-giáo đại-biểu như Củu-Chỉ đã nói .

Cái giáo-lý hợp sáng Phật, Lão, Nho ấy chính là triết-lý giáo-dục quốc-gia của Trần-Thái-Tông, tôn trọng cả Văn lẫn Võ như sử gia viết :

" Vua lập ra nhà học, tôn trọng nghề Văn, dựng lên nhà giảng tập việc Võ. Cả Văn lẫn Võ có vẻ rực rỡ lắm, cho nên có các ông Hán-Siêu, Trung-Ngạn, Nhật-Duật, Ngũ-Lão nối nhau xuất-hiện. Văn-Trinh và Hưng-Đạo là bậc danh Nho, danh Tướng lừng-lẫy thời bấy giờ, ấy là kết-quả của sự tôn chuộng cả Văn lẫn Võ vậy ". ( "Viêt Sử Tiêu Án" _ Ngô-Thời-Sĩ )

" Văn võ kim bị ", " tinh-thần và vật-chất đầy đủ " đấy là nhân cách lý tưởng kiểu mẫu của nền giáo-dục Quốc-Học thời Trần nhằm mục-đích đào tạo nên những nhân vật đáng làm gương mẫu không những cho dân-tộc mà còn cho cả nhân-loại muôn đời như Chu-Văn-An, Trần-Hưng-Đạo, Trần-Nhân-Tông vị Tổ Thiền-Tông Trúc-Lâm An-Tử. Cái hệ-thống giáo-dục ấy căn cứ vào cái triết-lý có thể gọi là " hòa hảo " vì nó hòa hợp các tôn-giáo mâu thuẫn nhau như Khổng, Lão, Phật, nghĩa là cái học thế-gian và cái học siêu-thế-gian. Cái học thế-gian hiện nay trên thế-giới là khoa-học kỹ- thuật vật-chất hoàn toàn căn cứ vào phương-pháp lý-trí và thực-nghiệm giác-quan, còn cái học siêu-thế-gian thì thuộc về tín-ngưỡng siêu-hình và tâm-linh vượt giới-hạn của trí-thức danh-lý. Lý-trí với tín-ngưỡng của thế- giới cận-đại là hai thù địch không đội trời chung, cũng như khoa-học với tôn-giáo, thiên-nhiên với nhân-văn. Bởi thế mà ở giáo-dục ngành khoa-học với ngành văn-học thường đi ra hai ngã cách biệt không thể gặp được nhau. Đấy là một khuyết-điểm tai hại cho hạnh-phúc của con người, chỉ tìm thấy ở trong tâm-hồn quân-bình hay là nói theo nhà Phật khi nào con người có được tâm-hồn viên-mãn, an-lạc. Tâm-hồn viên-mãn là khi nào các khả-năng của nhân-tính hay là bản-tính nhân-loại được phát-triển đồng đều, tình-cảm với lý-trí được khai phóng đồng đều cái nọ không lấn át mất cái kia .

" Ngoài thì là lý song trong là tình ". ( Nguyễn-Du )

Con người không phải chỉ sống bằng lý-trí, bằng khoa-học vạn-năng, bằng kỹ-thuật tinh xảo, để giải quyết các vấn-đề thực-tiễn của đời sống thế-gian, nó còn sống với tình-cảm và tín-ngưỡng vào siêu-nhiên như Linh-mục Léopold Cadière đã nhận thấy ở dân Việt, tuy không có quan-niệm Thượng-Đế như ở Âu-Tây nhưng họ sống rất tín-ngưỡng, sống trong bầu không khí siêu-nhiên thần-linh. Bởi thế mà ở mỗi tổ-chức xã thôn bên cạnh Đình làng thờ Thần còn có Chùa làng thờ Phật. Hai chữ Đình Chùa là hình ảnh gắn liền nhau trong tâm-hồn người Việt : Tiền Thần hậu Phật .

" Lâm râm khấn vái Phật Trời
Xin cho cha mẹ ở đời nuôi con
."

Hay là :

" Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân
."

Đủ thấy trong tín-ngưỡng bình-dân Trời với Phật không rời nhau. Trời thuộc về Nho-giáo thế-gian, Phật siêu-thế-gian. Bởi thế mà mở đầu quyển Kinh bình-dân, nhan đề là Phật Bà Quan-Âm, chúng ta thấy tình nhân-ái giới-hạn vào nhân-quần xã-hội của Khổng-Tử đã được lòng bác-ái từ-bi của Đức Phật mở rộng bao quát tất cả chúng-sinh muôn loài. Và chữ hiếu trong luân-lý gia-đình, con cái phải hết lòng thờ cha kính mẹ đã được tinh- thần bình-đẳng chân-như nhiệm-mầu của Phật-giáo cho phép người con đi tu đắc đạo có thể độ được cha, mẹ :

" Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ Nhân
Hiếu là độ được đấng thân
Nhân là vớt khỏi trầm luân muôn loài
Tinh thông nghìn mắt nghìn tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
Xem trong biển nước Nam ta
Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm
Niệm Ngài thường niệm tại tâm
"

Và pho tượng Phật " Thiên thủ thiên nhỡn " ở một ngôi Chùa cổ tích Bắc-Ninh đã sớm cụ-thể-hóa cái tinh-thần " Đồng qui nhi thù đồ " của văn-hóa Đông-Nam-Á, nơi gặp gỡ Đông Tây ngày nay vậy .

Vua Trần-Thái-Tông, mở đầu thời-đại oanh-liệt của lịch-sử dân-tộc, hẳn ý- thức sâu xa ý-nguyện của nhân-dân mình lãnh đạo, nên đã tuyên bố cái ý- thức-hệ hợp sáng Nho Thích như sau :
" Phật không có phương Nam, phương Bắc, đều có thể tu tỉnh để cầu tìm. Người ta sinh ra có kẻ khôn kẻ ngu, nhưng cùng tự bẩm tính giác ngộ. Thế nên lấy phương tiện để dạy bảo quần chúng mê lầm, soi tỏ đường tắt về sự sống chết, ấy là giáo lý của Đức Phật ta. Đặt cân mực cho đời sau, làm khuôn phép cho tương lai, ấy là trọng trách của bậc Thánh Nho. Cho nên Lục Tổ nói : Tiên Thánh Nho với Đại Sư Phật không khác nhau ! Như thế đủ biết giáo lý của Đức Phật ta lại mượn Tiên Thánh để truyền ra đời. Vậy thì Trẫm nay làm sao có thể không lấy trách nhiệm của Tiên Thánh làm trách nhiệm của mình, giáo lý của Đức Phật ta làm giáo lý của mình được ! " . (Thiền Tông Chỉ Nam Tự )

Cái tinh-thần hợp nhất Đạo và Đời, siêu-thế-gian với thế-gian, Trí-thức với Đạo-đức, Vũ-trụ với Xã-hội ấy, vốn là Quốc-Học thời Lý thời Trần, bước sang thời Lê thì Tống Nho độc-tôn giáo-dục khiến cho Nam Bắc phân tranh, để đến cuối thời Lê, một nhà danh Nho như Lê-Quý-Đôn phải ôn lại bài học lịch-sử giáo-dục của một triều-đại mà tổng kết rằng :

" Hồi quốc-sơ ( tức Lê-Thái-Tổ ) sau thời nhiễu-nhương, bọn nhà Nho còn thưa thớt. Những người làm đến chức Thị, Tụng như các ông Thiên-Tích, Cầm-Hồ đã rực rỡ khí phách anh hào, lại sẵn nếp can đảm dám nói thực. Những người mến thú lâm-tuyền như Lý-Tử-Cấu, Nguyễn-Thị-Trung đều một niềm giữ lấy tiết-tháo trong sạch, không chút lòng mơ tưởng phú quí giầu sang. Đấy là một thời .

" Trong khoảng thời Hồng-Đức ( 1470-1497 ) mở rộng đường khoa mục thành long trọng để kén nhân tài. Học trò bèn đua nhau thiên về văn hay, cốt thêu trạm lời phú vần thơ cho đẹp, hầu mong lấy bảng cao chức trọng, còn phần khí-tiết khẳng khái thì đã thấy tan tác hư suy. Nhưng vì đường sủng vinh rộng mở, cách khoa lệ cũng nghiêm, ai điềm tĩnh thì tự nhiên được cất nhắc ; kẻ chạy chọt cầu cạnh thì bị cách phạt. Bởi vậy người làm quan bấy giờ ít thói bon chen mà thiên hạ còn biết quí danh nghĩa. Đấy lại là một thời .

" Từ thời Đoan-Khánh ( 1505 ) về sau, lối thanh nghị suy đồi, thói luồn cúi ngày càng thịnh. Kẻ quyền thế ít có ai giữ được liêm sỉ nhún nhường. Nơi triều đình ít thấy lời can ngăn kích thiết. Gặp việc khó chịu hèn để khỏi bận, thấy cơ nguy bán nước cầu an. Cả đến bậc gọi là danh Nho cũng cam lòng nhận lấy cái vinh sủng bất nghĩa, mà vẫn cứ thi ca thù tạc, khoe hay khoe đẹp với nhau. Phong thái sĩ phu thật là hỏng nát, không bao giờ bằng thời này. Sự tệ hại thời biến chuyển này không thể nói hết. Tìm trong khoảng trên dưới một trăm năm quốc sử để lấy những bậc gọi là kẻ Sĩ, chỉ được có vài người như Lý-Tử-Cấu, thật đáng ngán cho bậc phong tiết như thế ít thấy quá vậy ." ( Lê-Quý-Đôn " Kiến văn Tiểu lục " )

Sau khi thấy giáo-dục quốc-gia độc tôn, một hệ-thống Nho-giáo đem lại kết-quả tai hại như thế vì bỏ mất cái gốc tín-ngưỡng tâm-linh của truyền- thống Tam-giáo thời Lý Trần, Lê-Quý-Đôn mới gọi nhà Nho phản tỉnh :

" Phép dạy đời của Thánh Hiền lấy đạo Trung Dung làm gốc. Những điều cương-thường luân-lý, Lễ, Nhạc, Hình, Chính đều tự Trời Đất lập nên, và Vua Thánh Chúa Hiền làm sáng tỏ. Theo tính tình tự nhiên để sửa sang đạo-lý dạy đời, ấy là mục-đích cùng tột xưa nay. Các bậc Thánh-nhân giảng học để làm sáng tỏ đạo Trời, để làm ngay thẳng lòng người. Còn như tìm việc mới lạ, bàn về quỉ quái thì không phải là công việc thông thường của các Ngài, nên các Ngài chỉ bàn đến những lẽ phổ-thông để không làm cho người đời thêm nghi hoặc .

" Giáo lý của Phật, Lão chuộng sự thanh-đạm, thoảng không mọi sự, siêu việt ra ngoài thế-tục, tịch-diệt hết mọi trần-duyên, không để sự vật bên ngoài làm bận thân-tâm. Đó cũng là cách độc thiện ký thân của các bậc cao minh, và là những lời siêu-việt về đạo-đức, những lý sâu rộng về hình thần, đều có ý nghĩa sâu xa huyền diệu. Bọn nhà Nho chúng ta nếu cứ giữ cái định-kiến phân ra đạo nọ đạo kia, mà điều gì cũng biện bác chê bai, thì sao nên ?

" Chỉ mới ở trong cõi chín châu này mà thổ-nghi cùng dân tình đã mỗi nơi một khác. Huống chi, trên thì Trời cao vòi vọi, giữa thì Đất rộng bao la. Những sự biến hóa ở đấy, lớn lao, mới lạ, huyền ảo, kỳ quái còn biết có giới hạn nào ? Lấy tấm thân nhỏ bé của người ta, thì dầu có tài ba ăn nói dọc ngang suốt tám cực, hút thở được cửa hoàn, nhưng kiến thức cũng chưa đủ rộng hết. Đã thế mà đối với những sự biến hóa ly kỳ của quỉ thần, và của các loài động vật, thực vật chép trong sách xưa, cùng những hình dạng ở các nước xa xôi, những vật tượng ở cõi thiêng liêng, đều nhất thiết không tin. Quá lắm lại còn có kẻ dám bỉ báng cả Tiên với Phật, sao mà ngu tối, tự đắc thế nhỉ ? "( Lê-Quý-Đôn, " Kiến văn Tiểu lục " )

Và nhà Nho Hà-Sách-Vinh vịnh Bà Tiết phu họ Đoàn cũng phải than về Sĩ khí thời Lê mạt :

" Thương thay nước cũ hai trăm lẻ
Giữ vững cương thường một phu nhân
."

Tại sao Sĩ khí đã suy đồi đến thế ? Phải chăng vì cái học vong bản, chuyên về hình-thức mà bỏ mất ý-nghĩa tinh-thần như Phan-Châu-Trinh đã than về cái học mất nước thời nhà Nguyễn :

" Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung
."

Nghĩa là dân tộc bị nô lệ của quyền lực ngoại lai dầy xéo, mà giới trí-thức vẫn say mê trong cái mộng từ chương tám vế của người Tầu .

Nhưng chỉ so sánh tinh-thần quốc-giáo của hai giai-đoạn lịch-sử dân-tộc, quốc-giáo Lý Trần với quốc-giáo Lê Nguyễn chúng ta đã thấy được cái lý do trụy-lạc của Sĩ phu. Một đàng tôn-trọng tâm-linh Phật-giáo với luân-lý Nho-giáo đồng thời với tâm-lý nghệ-thuật Đạo-giáo, dung hòa các tôn giáo, cho nên giáo-dục có tinh-thần khai-phóng sáng-tạo. Còn một đàng thì độc tôn Nho-giáo, cho nên giáo-dục trở nên bế tỏa mất tín-ngưỡng tâm- linh. Tín-ngưỡng truyền-thống của dân-tộc chỉ còn thấy ở đám bình-dân, còn giới trí-thức lãnh đạo mải mê vọng ngoại, như lời Phan-Châu-Trinh :

" Ngóng hơi thở của quan trường để làm văn sách.
Chích có thể phải, mà Thuấn có thể sai.
Nhặt dãi thừa của người Tầu để làm phú.
Biền thì phải tứ, Ngẫu thì phải lục.
Tíu tín những phường danh lợi, chợ Tề chực đánh cắp vàng.
Lơ thơ bao kẻ hiền tài, sân Sở luống buồn dâng ngọc
."

( Phú Lương Ngọc Danh Sơn )

Đây là tiếng nói của Nho sĩ cách-mạng thời " Đông Kinh Nghĩa Thục " muốn cải cách tinh-thần giáo-dục quốc-gia để lấy người phục-quốc. Nhưng thực-dân lo sợ đã bóp chết cái mầm Quốc-Học ngay từ trong trứng bằng sự đàn áp dã man, giết hầu hết các lãnh-tụ hay phát vãng. Thế là cuộc vận-động Quốc-Học đầu tiên thời Pháp đô hộ đã bị thất-bại tan tành .

Cho tới 1945, ở miền cực Nam Việt này lại được nghe tiếng hiệu-triệu " Đồ Nho và Nhà Sư " của Huỳnh Giáo-Chủ với tinh-thần Phật Nho Hòa- Hảo :

" Các cụ Đồ Nho ! Từ trước đến nay, luôn luôn các Cụ vẫn hoài-bão một nhiệt vọng cho sự độc-lập của nước Việt-Nam, luôn luôn các Cụ vẫn nuôi nấng một tinh-thần Quốc-gia càng ngày càng mạnh mẽ. Cái ngày mà các Cụ mong mỏi thiết tha đã đến và ngày giờ này các Cụ rất khoan khoái được thấy cái nguồn sinh lực của nước Việt-Nam tái phát. Bao nhiêu tiết tháo của thời xưa vẫn còn in sâu vào tâm não, bao nhiêu thành tích vẻ vang hùng tráng của thời xưa đã chép ra mà nét chữ vẫn chưa mờ, còn lưu lại nơi trí óc các Cụ những kỷ-niệm liệt oanh rực rỡ ...

" Các bậc Tăng Sư, Thiền Đức ! Các Cụ có nhớ chăng ? Trên lịch-sử Việt-Nam thời xưa nhà Đại-Đức " Khuông-Việt " dầu khoác áo cà sa rời miền tục lụy, thế mà khi Quốc-gia hữu sự cũng ra tay gánh vác non sông ." (Saigon tháng 3 dương lịch 1945)

Đấy là tiếng gọi của Lý-Phật-Tử, của Lý-Thường-Kiệt, của Trần-Thái-Tông đã vọng lại ngày nay bảo chúng ta mau trở về tinh-thần truyền-thống của dân-tộc " Tam giáo đồng nguyên ", " Nho, Phật, Hòa-Hào " là giáo lý đại đồng " Tri hành hợp nhất ", " Tâm vật không hai " của các Thiền Sư thời Lý thời Trần, rất thích hợp cho xã-hội mở cửa, với tinh-thần văn- hóa " Đồng qui nhi thù đồ " của khu vực Đông-Nam-Á trong thế-giới

" Năm châu một chợ, bốn bể một nhà " ngày nay. Và cái giáo-lý Hòa-Hảo ấy chính là cái Hồn của Đại-học Hòa-Hảo, để phục-hưng lại trong chương- trình giáo-khoa các đại truyền-thống văn-hóa Á-Châu bên cạnh khoa-học Âu Tây như lời Thánh Gandhi đã tuyên bố buổi khánh-thành Đại-học Gujerat ngày 17 tháng 11 năm 1920 :

" Đại-học Quốc-gia ngày nay lập nên để phản đối sự bất công của thực- dân, và để bảo vệ quốc-thể chúng ta. Nhưng Đại-học Quốc-gia sẽ còn tồn tại mãi. Nó lấy những lý-tưởng dân-tộc của một Ấn-Độ thống-nhất làm nguồn khích động. Nó đại-diện cho một tôn-giáo là Pháp (Dharma) của tín-đồ Ấn-Độ-giáo, và Islam của tín-đồ Hồi-giáo. Nó muốn cứu vãn các tiếng mẹ đẻ bị bỏ rơi một cách không chính đáng. Và lấy làm nguồn sinh lực phục-sinh dân-tộc và văn-hóa Ấn-Độ. Nó quan niệm sự nghiên cứu có hệ-thống các nền văn-hóa Á-Châu cũng cốt yếu như nghiên cứu các khoa- học Âu-Tây. Nó sẽ phải tìm trong kho-tàng vĩ đại của tiếng Sanscrit, tiếng Arabe, tiếng Persan, tiếng Pali và Magahdi để khám phá đâu là nguồn sinh lực dân-tộc. Nó không chỉ nhằm nuôi dưỡng tính tình bằng những văn-hóa cổ xưa, hay tìm mô phỏng mà nó còn mong sáng-tạo nên một nền văn-hóa mới, căn cứ vào những truyền-thống và tăng tiến về kinh nghiệm các thời gần đây. Nó đại biểu sự hợp sáng các nền văn-hóa khác nhau đã du-nhập vào đất Ấn và từng thích ứng với tinh thần bản xứ Ấn " . ( Jeune Inde )

Lời tuyên bố này, đến nay vẫn còn là toát yếu những điểm căn-bản cho một nền giáo-dục Quốc-gia của các dân-tộc kém mở mang như Việt-Nam, đang còn tranh đấu để sống lại và trưởng-thành một dân-tộc tự-do độc-lập vậy.

Thư-viện bồ-đề online@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc-Lâm Yên-Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc-Lâm Yên-Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site