lịch sử việt nam
Tuyên Bố Của Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ Việt Nam
MỘT HỆ THỐNG CĂN CỨ HẢI QUÂN MỚI TẠI QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA &ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Bản dịch từ Anh Ngữ của Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam
Trong các thập niên qua, Trung Cộng đã dần dần khẳng định chủ quyền của chúng trên Biển Đông (Eastern Sea) của Việt Nam. Trong năm 1988, Trung Cộng đã phái các lực lượng hải quân của chúng đến xâm chiếm sáu rạng san hô tại Quần Đảo Trường Sa. Sau đó, Trung Cộng đã xây dựng các cấu trúc kiên cố trên đó để xác định chủ quyền của chúng. Trong Tháng Sáu 2007, Trung Cộng đã vẽ một bản đồ chữ U bao trùm 80% diện tích Biển Đông, tuyên bố rằng vùng đó thuộc chủ quyền của chúng. Trong Tháng Mười Một 2007, Trung Cộng đà thiết lập Huyện Hoàng Sa tại Đảo Phú Lâm (Woody) thuộc Quần Đảo Hoàng Sa (Paracels) để quản trị các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Đây là một hành vi sát nhập một cách chính thức các quần đảo này vào lãnh thổ của Trung Cộng.
Trước sự vi phạm trắng trợn vào lãnh hải của Việt Nam bởi Trung Cộng, các lãnh đạo ĐCSVN (VC) đã tỏ ra không mấy quan tâm đến sự bảo vệ lãnh thổ quốc gia của họ. Không hành động tích cực nào đã được đưa ra để phòng vệ lãnh thổ. Ngược lại, họ đã động viên toàn thể guồng máy chính quyền [bao gồm cảnh sát, tòa án, nhà tù, nhân viên quân sự, với sự hỗ trợ của các chi bộ đảng địa phương] để đàn áp các sự phản đối của các sinh viên đã biểu tình trên các đường phố Hà Nội và Sàigòn để chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng
Lãnh đạo VC càng nhượng bộ nhiểu đối với lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc (TC) , thì Trung Cộng lại càng gia tăng nhiều hơn nữa các hoạt động để khẳng định các yêu sách về chủ quyền của chúng trên Biển Đông. Trong Tháng Năm 2014 vừa qua, Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân Trung Cộng (HTCCHQTC) đã được thiết lập như một bước tiến hơn nữa nhằm đạt được mục đích của của chúng: làm chủ thực sự và duy nhất toàn thể vùng biển này.
I. ÂM MƯU BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG
Đầu Tháng Năm 2014, truyền thông quốc tế loan truyền tin tức cảnh báo rằng Trung Cộng đang xây cất một hòn đảo nhân tạo khổng lồ trên Rạng Đá Ngầm Gạc Ma (Johnson South Reef: JSR) để biến cải toàn thể khu vực thành một căn cứ hải quân, nhằm kiểm soát hải phận Á Châu.
Đảo Đá Ngầm Gạc Ma là của Việt Nam. Trong Tháng Ba 1988, Trung Cộng đã phái bốn khu trục hạm thuộc lực lượng hải quân của chúng tại đảo Hải Nam đến chiếm đoạt đảo này, hạ sát khoảng 64 binh sĩ cộng sản Việt Nam không vũ trang trong khi đang bơi và chuyển vận đồ tiếp tế cho các chiến hữu của họ đồn trú tại đó để phòng thủ rạng đá ngầm này. Điều đáng nói là sau khi sử dụng các vũ khí hạng nặng để tấn công các người đang bơi lội, lính Trung Cộng đã đến nơi trên các tàu PT, tìm kiếm các người vẫn còn sống sót để giết họ bằng súng nhỏ.
Rạng Gạc Ma cấu thành bởi san hô, nằm ở chóp đỉnh của chuỗi Sinh Tồn về phía Tây Nam, và là một trong sáu đảo đá ngầm mà Trung Cộng đã cướp đoạt của Việt Nam hôm 14 Tháng Ba.
Khu vực này tọa lạc phía nam của Quần Đảo Trường Sa.
Vào ngày 5 Tháng Năm 2014, Hoàn Cầu Thời Báo (Global Times) của Trung Cộng. tiết lộ (một cách nửa bí mật) rằng “Trung Cộng đã tạo lập một hòn đảo nhân tạo “có thể là Đảo Gạc Ma” thuộc Quần Đảo Trường Sa, trên đó có một phi trường hải quân và một hải cảng để tiếp nhận các tàu của Trung Cộng sẽ được sử dụng để “đáp ứng mau lẹ trong trường hợp chiến tranh”. Sau đó, một cơ quan truyền thông khác tại Trung Cộng có nói rằng đảo Gạc Ma là một trạm cung cấp đồ tiếp liệu cho các ngư phủ không thôi. Các văn phòng, nhà nghỉ, và các nông trại cùng một hải cảng đủ lớn để phục vụ cho các tàu có trọng tải đến 5,000 tấn cũng sẽ được xây dựng.
Vào ngày 7 Tháng Sáu, 2014, từ South China Morning Post (SCMP) có tường thuật rằng Trung Cộng đã biến đảo Gạc Ma thành một đảo nhân tạo vĩ đại. Trên đó, phi trường hải quân, các hải cảng riêng biệt cho các tàu quân sự và dân sự sẽ được xây dựng. Các nhà ở cho thường dân, các cơ sở du lịch cũng được dự trù. Các tàu nạo vét đang hút cát từ đáy biển cho mục đích đó.
Vào ngày 13 Tháng Năm, 2014, Bộ Ngoại Giao Phi Luật Tân đã tố giác rằng Trung Cộng đang xây cất một đảo nhân tạo mang tên JSR, gồm cả một phi trường quân sự.
Trả lời sự tố giác của Phi Luật Tân, vào ngày 15 Tháng Năm 2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Cộng, Hoa Xuân Oánh tại Bắc Kinh đã tuyên bố rằng “Trung Cộng có chủ quyền không tranh cãi trên vùng này, kể cả Rạng San Hô Gạc Ma; vì thế, Trung Cộng có quyền xây dựng bất kỳ điều gì mà TC muốn làm”.
*****
Trung Cộng đã xây dựng một đảo nhân tạo khác tại khu vực Rạng San Hô Chữ Thập (Fiery Cross Reef: FCR). Rạng San Hô Chữ Thập ở phía Tây của Đảo Gạc Ma. Vào ngày 6 Tháng Một 2015, Tướng Gregorio Catapang Jr., Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Phi Luật Tân tuyên bố: “Khoảng 50% hòn đảo nhân tạo đã được hoàn tất … Nó được xây cất trên rạng san hô [FCR] mà Trung Cộng đã chiếm đoạt của Việt Nam hồi năm 1988 … Đây là một điều quan ngại nghiêm trọng, bởi nó có thể được sử dụng cho một mục đích khác hơn hòa bình …”
Một trang mạng Phi Luật tân có tên Rappler hôm 6 Tháng Một, 2015 đã trích dân một nguồn tin từ quân đội Phi Luật Tân nói rằng phi đạo được xây dựng trên đảo Chữ Thập dài 2000 mét và sẽ được hoàn tất vào cuối năm.
Trong Tháng Mười Một 2014, Tạp Chí HIS Jane Review có công bố một hình chụp bằng vệ tinh cho thấy một phi đạo và một hải cảng trên hòn đảo đang khai hoang có chiều dài 3 cây số và chiều ngang 300 mét.
Đối với một chuyên viên quân sự Phi Luật Tân, không còn gì để nghi ngờ rằng phi đạo sẽ được sử dụng cho các máy bay phản lực quân sự Trung Cộng trợ giúp vào việc đặt toàn vùng dưới sự kiểm soát của Trung Cộng, trong khi hải cảng sẽ để tiếp nhận các tàu tiếp tế và các tàu khác giúp Trung Cộng thực hiện các kế hoạch bành trướng của chúng.
Các đảo nhân tạo JSR và FCR trong HTCCHQ đã được thành hình để đáp ứng các nhu cầu của Trung Cộng muốn bành trướng lãnh thổ xuống phía Nam.
Vì căn cứ hải quân Trung Cộng đã được thiết lập trên đảo Phú Lâm thuộc Quần Đảo Hoàng Sa dùng làm bộ chỉ huy cho toàn vùng có các hạn chế và không thể đảm đương trách vụ như Trung Cộng nhắm đến, nên Trung Cộng cần xây dựng các căn cứ hải quân xa hơn về phía nam.
Căn cư Phú Lâm Văn Phòng Bộ Chỉ Huy, Căn Cứ Phú Lâm
Kết quả, sáu rạng đá ngầm mà Trung Cộng chiếm đoạt của Việt Nam năm 1988 là sự lựa chọn của chúng.
Hạn Chế 1: Khoảng cách từ đảo Phú Lâm đến JSR là 800 cây số. Và khoảng cách giữa đảo Phú Lâm và Barque Canada (đảo Thuyền Chài) nằm ở điểm cực nam của Quần Đảo Trường Sa tại vĩ tuyến thứ 3 là 1,780 cây số. Do đó, Trung Cộng không thể kiểm soát hải phận khối ASEAN và xa hơn về phía Nam.
Hạn Chế 2; Kích thước của đảo Phú Lâm thì quá nhỏ để sử dụng làm một căn cứ hải quân. Diện tích đảo Phú Lâm từ 1.3 đến 2 cây số vuông, trong khi căn cứ JSR vĩ đại sau khi hoàn tất sẽ lớn hơn căn cứ hải quân Hoa Kỳ Diego Marcia tại Ấn Độ Dương.
Hạn Chế 3: Các tham vọng của Trung Cộng rất lớn. Ý đồ của chúng là muốn sáp nhập toàn thể Á Châu vào lãnh thổ của nó. Chinh phục Á Châu chỉ là một bước tiến trước khi di chuyển đến Phi Châu và các châu lục khác. Vì thế cần đến một căn cứ lớn hơn.
Sau khi căn cứ JSR được nối liền với Đảo Chữ Thập đang được xây cất và với các đảo khác, hệ thống căn cứ sẽ trở thành một chuỗi các tiền đồn kiên cố trải dài trên 44 cây số.
Vào lúc này, 3 hay 4 cấu trúc kiên cố đã được xây dựng từ trước trên Rạng Vành Khăn (Mischiefs) ở về phía Đông của JSR, nằm ngoài chu vi của HTCCHQ. Trong số đó, một số cấu trúc được nhìn thấy lớn như một khách sạn đồ sộ được dựng lên từ mặt biển. Chuỗi các tiền đồn kiên cố sẽ hỗ trợ cho các cấu trúc trên Rạng đá ngầm Vành Khăn để kiểm soát các tuyến hàng hải, đặc biệt để theo dõi các tàu quân sự thuộc Hạm Đội số 7 của Hoa Kỳ di chuyển từ Ấn Độ Dương xuyên qua Eo Biển Malacca đến vùng Đông Á dọc theo bờ biển phía Tây của Phi Luật Tân (Xem các hình tại Phần III bên dười đây).
BẢN ĐỒ CHỈ HỆ THỐNG CĂN CỨ HẢI QUÂN MỚI
CỦA TRUNG CỘNG
HTCCHQ được hợp thành bởi 5 hòn đảo nhân tạo dặt trên các rạng dđá ngầm kể sau: 1) Gaven (Bãi Đá Ngầm Gaven); Bãi Đá Collins (Johnson North); Bãi Đá Gạc-Ma (Johnson South Reef); 4) Bãi Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và 5) Bãi Đá Châu Viên (Cuarteron).
CÁC HOẠT ĐỘNG CẢI TẠO CỦA TRUNG CỘNG TRÊN NĂM BÃI ĐÁ CHIẾM ĐOẠT CỦA VIỆT NAM
Ít nhất, tàu nạo vét Tian Jiang Hao, Nina Hai Tao và một tàu vét thư ba đã hoạt động từ Tháng Chín 2013 đến Tháng Sáu 2014 giữa 5 rạng dá ngầm kể trên, được hộ tống bởi tàu chiến thuộc hạng Miên Dương, có trang bị các hỏa tiễn và các khí giới khác kể cả một tàu đổ bộ để bảo vệ.
Cuateron Reef: 9-28 Tháng Chín 2013; 4-8 Tháng Ba 2014; 10 Tháng Tư đến 22 Tháng Năm 2014; Union Reefs South: 17 Tháng Mười Hai 2013 đến 3 Tháng Ba 2014; Union Reefs North: 20 Tháng Ba đến 3 Tháng Tư 2014; Fiery Cross Reef: 7-14 Tháng Mười Hai 2013 và 9-17 Tháng Ba 2014; Gaven Reefs: 24 Tháng Năm đến 15 Tháng Sáu 2014
Tian Jiang Hao, tàu nạo vét khổng lồ của Trung Cộng, dài 127 mét. Nó có khả năng thực hiện việc hút cát từ biển nước sâu. Nó có thể hút 4,500 tấn cát mỗi giờ. Tian Jiang Hao là chiếc lớn nhất trong ba chiếc tàu nạo vét hoạt động trong khu vực.
Hình một tàu khác, hạng Giang Vệ, được trang bị các hỏa tiễn để bảo vệ cho sự xây cất, với các tàu đổ bộ để tiếp tế có hiện diện tại các địa điểm xây cất.
CÁC ĐE DỌA ĐẶT RA BỞI HTCCHQ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ASEAN VÀ THẾ GIỚI
Rolio Golez, nguyên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Phi Luật Tân đã cảnh cáo rằng căn cứ quân sự mà Trung Cộng đang xây dựng trên đảo JSR sẽ là một mối đe dọa lớn lao đối với các nước Á Châu và Thái Bình Dương. Vào hôm 6 Tháng Mười 2014, Băng Tần ANC của Truyền Hình Phi Luật Tân cho thấy rằng toàn thể Đông Nam Á sẽ gặp nguy hiểm sau khi Chính Quyền Cộng Sản Trung Quốc hoàn tất sự xây dựng trái phép căn cứ quân sự trên đảo JSR tại Quần Đảo Trường Sa với một phi đạo. Đảo JSR thuộc về Việt Nam.
Ông Golez đã xác nhận rằng Chính Quyền Trung Cộng muốn thay đổi cán cân quyền lực tại Đông Nam Á xuyên qua sự xây dựng căn cứ hải quân mới. “Chính Quyền Trung Cộng muốn củng cố quyền lực của chúng tại Biển Nam Trung Hoa và biến nó thành hồ nước của riêng chúng. Chúng khẳng định rằng chúng sở hữu lãnh hải hình chữ U mà chúng tự đã vẽ ra trong năm 2007. Chúng muốn sự thay đổi quyền lực, bởi vì Hoa Kỳ đang đóng một vai trò chế ngự ở đó. Trung Cộng bắt đầu thách đố vị thế của Hoa Kỳ …
“Căn cứ quân sự JSR sẽ được dùng để tái tiếp tế và hỗ trợ cho các khu trục hạm của chúng. Ngoài ra, người ta có thể nhìn thấy một phi đạo với chiều dài 1.6 cây số. Điều này rất nguy hiểm bởi đây là một căn cứ cho các máy bay quân sự, chẳng hạn như máy bay J-11 của Trung Cộng có tầm hoạt động xa tới 3,200 cây số. Đảo JSR là một trung tâm điểm và đường kính của khu vực lớn hơn 1,600 cây số. Chính vì thế các nước láng giêng tại Á Châu đều nằm trong tầm hoạt động của chúng. Do đó, tất cả các căn cứ quân sự của chúng tôi sẽ bị đe dọa”.
Cựu Đại Sứ của Phi Luật Tân, Paranaque, đã ghi nhận rằng khi căn cứ quân sự ấy được hoàn tất, các máy bay phản lực của Trung Cộng sẽ dễ dàng tiếp cận đến Phi Luật Tân, Việt Nam và một phần của Mã Lai nằm trong phạm vi 1000 dặm.
Về đảo nhân tạo FCR, phi đạo của nó sẽ giúp cho các phản lực cơ Trung Cộng kiểm soát toàn vùng trong khi hải cảng của chúng sẽ trở thành bến đỗ cho các tàu tiếp vận và các tàu khác.
II. CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong vài thập niên qua, yêu sách của Trung Cộng tại khu vực tranh chấp ngày càng khẳng quyết hơn: từ chối không cho các ngư phủ Việt Nam sinh hoạt tại các biển truyền thống của họ bằng cách “hạ sát, bắt giữ và cầm tù vì lý do vi phạm vào hải phận Trung Cộng”; các tàu hải quân Trung Quốc đánh đắm thuyền của họ; các tàu hải giám Trung Cộng cắt đứt dây cáp của các tàu khảo sát địa chấn trên thềm lục địa Việt Nam; tạo áp lực trên nhà chức trách Việt Nam phải bắt giữ và giam cầm các sinh viên kêu gọi bảo vệ các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay những người phản đối lại các hoạt động của Trung Cộng trong sự khẳng định chủ quyền trên các đảo …; đe dọa và đòi hỏi các tổ hợp dầu hỏa ngoại quốc đang khai thác dầu hỏa tại hải phận Việt Nam phải rời đi….
Vào hôm 1 Tháng Năm 2014, Trung Cộng đã đi đến việc có một hành động mạnh bạo hơn: bất ngờ hạ đặt dàn khoan dầu khổng lồ HD 981 trên thềm lục địa của Việt Nam để thăm dò. Dàn Khoan Dầu được hộ tống bởi một ham đội ban đầu vào khoảng 90 tàu mọi loại kể cả các chiến thuyền được trang bị các hỏa tiễn, một số tàu hải giám, tàu tuần cảnh biển … và về sau số lượng các tàu gia tăng lên tới 135 chiếc. Khi dàn khoan xâm nhập, phía Trung Cộng đã đưa ra các cảnh cáo cho cảnh sát biển Việt Nam phải rời khỏi khu vực và giới hạn là 3 dậm tính từ dàn khoan. Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng tức thời đáp ứng các yêu cầu của Trung Cộng, đã ra lệnh cho các đơn vị cảnh sát biển triệt thoái khỏi địa điểm. Các tàu cảnh sát Việt Nam khi đó hoạt độ cách xa dàn khoan và canh chừng. Tuy nhiên một số tàu của họ bị đánh đắm bởi các tàu Trung Cộng mặc dù họ đã ở cách xa khoảng 10 dặm. Các tàu khác đã bị tổn hại khi bị đâm húc bởi các tàu Trung Cộng. Tổng số tổn thất là 24 chiếc tàu. Một số nhân viên của lục lượng cảnh sát biển bị giết chết, và các người khác bị thương.
Trung Cộng tuyên bố rằng dàn khoan hoạt động trong hải phận của chúng.
Đây là một sự khiêu khích và xâm lăng thực sự bằng vũ lực.
Về phía Việt Nam, không biện pháp cụ thể tích cục nào được thực hiện để phòng vệ lãnh thổ. Phẫn nộ trước sự bất động của chính phủ chống lại quân ngoại xâm, và cũng lo sợ về các sự nhượng bộ lãnh thổ hơn nữa được trao cho Trung Cộng như đã xảy ra trong quá khứ, vào khoảng năm mươi nghìn người Việt Nam đã tụ tập tại Bình Dương trong một vụ phản đối chống quân xâm lược. Một số cơ xưởng sở hữu bởi Trung Cộng bị đốt cháy và hủy hoại. Tại Hà Tĩnh, các người phản đối trở nên bạo động. Hai công nhân Trung Cộng đã bị giết chết, và bốn người bị thương.
Sự kiện Trung Cộng di chuyển dàn khoan vào hải phận Việt Nam đã đặt giới lãnh đạo ĐCSVN vào một vị thế khó xử: một mặt, họ không thể đối kháng lại đòi hỏi của nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia chống lại quân xâm lược; mặt khác, họ nằm dưới áp lực nặng nề từ Trung Quốc để đưa ra các sự nhượng bộ hơn nữa bằng việc chấp nhận sự kiện rằng dàn khoan HD 981 hoạt động tại hải phận mà Trung Cộng tuyên bố là của chúng. Dưới tình huống này, điều quan trọng nhất cho các lãnh đạo ĐCSVN là phải tìm cách để làm giảm bớt tình hình sôi sục bên trong Việt Nam.
Vào ngày 11 Tháng Năm, tại một phiên họp của khối ASEAN ở Miến Điện, Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng đã tố cáo rằng hành động của Trung Cộng cấu thành một mối nguy hiểm to lớn cho sự an toàn và quyền tự do lưu thông hàng hải xuyên qua Biển Nam Trung Hoa. Vào ngày 21 Tháng Năm, 2014, ông ta đến Manila. Ông đã nói về một biện pháp pháp lý với Tổng Thống Phi Luật Tân Aquino là kẻ đã nạp đơn kiện Trung Cộng vì các sự vi phạm đến hải phận của Phi Luật Tân. Cuộc thảo luân được phổ biến sâu rộng bởi truyền thông Việt Nam khiến cho dân chúng nghĩ rằng ông Dũng đang cứu xét đến một hành động pháp lý nhằm chặn đứng sự xâm lăng của Trung Cộng. Nhưng thực sự không phải như vậỵ. Đây chỉ là một loại chiến thuật cũ kỳ mà ông ta đà sử dụng để tạm thời xoa dịu căng thẳng bên trong nước.
Tại sao các lãnh đạo ĐCSVN lại chấp nhận một chính sách thỏa hiệp trước đòi hỏi của Trung Cộng về lãnh thổ, thay vì tìm cách để phòng vệ? Tại sao họ đã giữ im lặng và giả vờ không hay biết bất kỳ điều gì về sự kiện rằng từ năm 2013, Trung Cộng đã công khai xây dựng một đảo nhân tạo trên Rạng Đá Ngầm JSR với các tàu nạo vét khổng lồ di chuyển qua lại trong một thời khoảng lâu dài ở Quần Đảo Trường Sa, trong khi chính phủ Phi Luật Tân đã lên tiếng chống lại chính sách bành trướng của Trung Cộng nhân danh họ?
Câu trả lời sẽ như sau:
Trở lùi về Tháng Tư 2011, Tướng Quách Bá Hùng, phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Cộng (ĐCSTC), đến Hà Nội và gặp gỡ các lành đạo ĐCSVN: Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ Tịch Nước Nguyễn minh Triết … Các lãnh đạo hai đảng đã đồng ý trên một số nguyên tắc theo đó hai bên sử dụng để “giải quyết các vấn đề tranh chấp” liên quan đến Biển Nam Trung Hoa;
1) Tham khảo thân hữu và song phương để tìm một giải pháp cho sự xung đột;
2) Không để bất kỳ nước thứ ba nào can thiệp vào việc giải quyết các vấn đề Quần Đảo Trường Sa;
3) Hướng dẫn công luận và cảnh giác không đưa ra những lời phát biểu hay có bất kỳ hành động nào có thể dẫn đến việc làm tổn hại tình hữu nghị hay làm mất lòng tín nhiệm của dân chúng hai nước.
Trong Tháng Mười cùng năm, các điểm này đã được phê chuẩn một cách chính thức vào một Hiệp Ước có tên là “Thỏa Thuận Hỗ Tương Về Giải Pháp Cho Các Sự Tranh Chấp Tại Biển Nam Trung Hoa” được ký kết bởi Hồ Xuân Sơn, Thứ Trưởng Ngoại Giao Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đối nhiệm Trung Cộng là Cui Tiankhai (Thôi Thiên Khải) dưới sự “giám sát” của Đới Bỉnh Quốc, Phó Thủ Tướng Trung Cộng phụ trách ngoại giao.
Tinh thần của Bản Thỏa Thuận cho thấy rằng ĐCSVN và ĐCSTC không ở thế bình đẳng với nhau. Nó trông giống như một mối quan hệ giữa một “ông chú” và một “đầy tớ”, hay mối quan hệ giữa một Đế Triều và một nước chư hầu thời phong kiến.
Trong bản Thỏa Thuận, chỉ có mệnh lệnh một chiều từ Trung Cộng, và Việt Cộng phải thi hành nó, mà không có cả quyền được phàn nàn hay khiếu nại.
Trung Cộng đã hạ đặt dàn khoan HD 981 trong hải phận Việt Nam ngoài khơi Quảng Ngãi, nhưng lại tuyên bố nó nằm trên hải phận của Trung Cộng. Dĩ nhiên, Việt Cộng đã không được tham khảo về việc đó. Cũng thế, sau khi dàn khoan đã được hạ đặt và dưới áp lực của dân chúng Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng đã xin gặp Tập Cận Bình, lời yêu cầu của ông ta bị cự tuyệt. Sự xây dựng 14 dự án trên năm rạng đá ngầm tại Quần Đảo Trường Sa chiếm đoạt từ Việt Nam đã diễn tiến trong hơn hai năm, có lẽ không có sự ưng thuận của ĐCSVN, và lãnh đạo Đảng này không dám lên tiếng phản đôi.
Theo Bản Thỏa Thuận, phía Trung Cộng có mọi đặc ưu quyền và quyền hạn, mà không có bổn phận nào trong khi Việt Nam không được phép, hay bị cấm khiếu nại: “Việt Nam không thể đưa ra các lời tuyên bố có thể làm mất sự tín cậy của Trung Cộng”.
Trung Cộng đã nghĩ rằng các lãnh đạo ĐCSVN bị ràng buộc chặt chẽ bởi bản thỏa thuận, và rằng trong những năm trước, họ đã hăng hái thực hiện những gì mà tự họ đã cam kết và rằng họ có thể kiểm soát một cách thành công tình hình bên trong cùng như bên ngoài Việt Nam.
Trong thực tế, bên trong nước, công luận đã bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi ĐCSVN để thỏa mãn các đòi hỏi của Bắc Kinh. Các kỳ thuật Leninit đã được sử dụng trọn vẹn để đập tan sự chống đối Trung Cộng. Các người phản đối tích cực và mạnh mẽ chống lại Trung Cộng trong động tác khẳng định chủ quyền của nó đã bị hoặc cô lập hay giam cầm. Phần lớn họ bị đối xử một cách thô bạo hay dữ tợn.
Hình một sinh viên phản đối xâm lược Trung Cộng tại Sàigòn bị trấn áp theo kỹ thuật Leninist bởi một cảnh sát mặc thường phục
Các tiếng nói kêu gọi sự bảo vệ các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị bóp nghẹt. Ngay cả các kẻ cầm một bích chươing với khẩu hiệu “Hoàng Sa & Trường Là Của Việt Nam” cũng bị bỏ tù. Việt Khang, một nhạc sĩ trẻ, người chỉ sáng tác một bài ca ngắn chống Trung Cộng đã bị bắt 3 năm trước đây và cho đến nay không ai hay biết nơi giam giữ anh ta ở đâu.
Các lãnh đạo ĐCSVN đã huy động thành công toàn thể guồng máy chính quyền với sự hỗ trợ của các tổ đảng địa phương (cảnh sát, tòa án, nhà tù, tổ đảng địa phương, nhân viên quân sự) trong việc duy trì “trật tự công cộng” như được quy định trong bản Thỏa Thuận.
Trên bình diện quốc tế, các lãnh đạo ĐCSVN đã không đưa ra bất kỳ lời tuyên bố nào hay có bất kỳ hành động nào có thể “làm tổn hại đến tình hữu nghị với Trung Cộng”: không bình luận/ý kiến/hành động nào có thể gây tổn hại cho nó. Các ngư phủ của Việt Nam liên tục bị quấy phá một cách thô bạo. Một số trọng họ bị giết chết. Nhiều người khác bị bắt giữ và giam cầm vì các sự vi phạm vào hải phận Trung Cộng mặc dù họ đang hoạt động trong hải phận Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, tàu của họ bị đâm húc và đánh đắm vởi tàu Hải Quân Trung Cộng. Truyền thông đại chúng chính thức của ĐCSVN chỉ dám nói rằng “tàu lạ” đã gây ra việc đó. Họ không dám chỉ danh các tàu hải quân Trung Cộng, mặc dù các nạn nhân đều hay biết căn cước của các tàu ấy. Tất cả “các tàu lạ” rời bỏ hiện trường mà không hề cứu vớt các nạn nhân trên tàu. Vì thế, không nước nào có thể quy trách Trung Cộng về các hành vi bất hợp pháp và vô nhân đạo của ho. Cũng vậy, tuân hành bản Thỏa Thuận, CHXHCNVN đã không có hành động pháp lý chống lại dàn khoan HD 981 “mặc dù nó hoạt động một cách bất hợp pháp trong hải phận Việt Nam”. Hay, ĐCSVN giữ im lặng trong khi Hải Quân ĐCSTC xây dựng các đảo nhân tạo tại Quần Đảo Trường Sa.
Trung Cộng cảm thấy thỏa mãn với những gì ĐCSVN đã làm.
Tin tưởng nơi các kết quả thỏa đáng mà các lãnh đạo ĐCSVN đã làm trong việc thi hành các bổn phận được quy định trong bản Thỏa Thuận Hỗ Tương, Trung Cộng đã bước một bước tiến bạo dạn hơn đến việc khẳng định chủ quyền của nó trên Biển Đông: hạ đặt dàn khoan HD 981 trong hải phận Việt Nam hồi Tháng Năm 2014. Nếu việc này thành công, toàn thể Biển Nam Trung Hoa mau chóng trở thành lãnh thổ Trung Cộng.
***
Sự kiện các lời tuyên bố của Nguyễn Tấn Dùng tại Miến Điện và Manila trái ngược với Bản Thỏa Thuận Tháng Mười 2011, khiến ĐCSTC nghĩ rằng các lãnh đạo ĐCSVN đã cố gắng tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của chúng.
Hậu quả, Trung Cộng đã phái Dương Khiết Trì, Phó Thủ Tướng phụ trách ngoại giao đến Việt Nam hôm 16 Tháng Tám, 2014.
Những gì mà họ Dương nói với Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nuyễn minh Triết không được tiết lộ. Tuy nhiên, hai ngày sau đó khi ông ta trở về Bắc Kinh, truyền thông TC tường thuật rằng ông đã chỉ trích một cách thẳng thừng các lãnh đạo ĐCSVN về việc không tuân thủ các nguyên tắc trong bản thỏa thuận mà cả hai bộ ngoại giao đã ký kết hồi Tháng Mười 2011.
Điều cùng được tường thuật rằng họ Dương có nói với truyền thông Trung Cộng rằng ông ta đã đến Hà Nội để mang “các đứa con hoang đàng trở về với cha mẹ đang khổ đau”, và rằng các lành đạo ĐCSVN phải thi hành đầy đủ bốn KHÔNG:
1) Không được đánh giá thấp sự quyết tâm vững chắc của Trung Cộng và các khả năng của TC để bảo vệ chủ quyền trên Quần Đảo Trường Sa (dĩ nhiên bằng vũ lực).
2) Không sử dụng các tài liệu hay dữ kiện mà Việt Nam tuyên bố là các tài liệu lịch sử để khẳng định chủ quyền “lịch sứ” trên Quần Đảo Trường Sa. Nếu làm như thế, nó sè tạo ra một sự hiểu lầm đối với cộng đồng thế giới cùng như đối với nhân dân Việt Nam về vấn đề này.
3) Không mang bất kỳ nước thứ ba nào can thiệp vào vấn đề này.
4) Không đi chệch hướng khỏi một tình hữu nghị mãi mài tốt đẹp với Trung Cộng.
Thật là một sự sỉ nhục!
Một cách đáng ngạc nghiên, bốn KHÔNG mà họ Dương đã nói với các lãnh đạo ĐCSVN phải làm đã được tôn trọng nghiêm ngặt. Kể từ đó, mục đích của Trung Cộng là các lãnh đạo ĐCSVN cố gắng kéo dài vấn đề càng lâu càng tốt, sao cho Trung Cộng có đủ thời gian để hoàn thành các dự án xây dựng Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân của họ một cách êm thắm và thành công.
***
Tóm lại, không có gì gây ngạc nhiên rằng các lãnh đạo ĐCSVN đà cố gắng tuân hành các cam kết nêu trên mà họ đã đưa ra theo Bản Thỏa Thuận Tháng Mười 2011. Đây là một hành vi thông đồng về phía các nhà lãnh đạo ĐCSVN trong ý đồ bành trướng của Trung Cộng tại Biển Nam Trung Hoa. Là chủ, Biển Đông mà họ giữ im lặng, hay không có bất kỳ hành động nào, chẳng hạn như kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế trong khi quân xâm lược hùng mạnh đang vội vã đẩy nhanh sự xây dựng hệ thống căn cứ, vì thế không nước nào có thể can thiệp. Khi căn cứ trở thành một “sự đã rồi”, không ai có thể đảo ngược được tình thế.
Không còn gì nghi ngờ rằng JSR, FCR và các đảo nhân tạo khác trong hệ thống HTCCHQ sẽ được hoàn tất trong ít năm. Khi đó nó trở thành cứ địa cho các tàu chiến, các phản lực cơ, kho vũ khí của Trung Cộng … Các binh sĩ Trung Cộng sẽ đến và trú đóng ở đó. Một khi các toán quân và trang thiết bị của Trung Cộng được bố trí tại đó, các lãnh đạo ĐCSVN sẽ được TC bảo hãy rút quân ra khỏi các hòn đảo và các rạng san hô và chuyển giao chúng cho Trung Cộng. Các lãnh đạo ĐCSVN sẽ không dám làm như thế bởi họ sẽ bị quy trách về tội “bán Biển Đông cho quân ngoại xâm”. Và họ sẽ không làm gì cả, ngấm ngầm cho phép Hải Quân Trung Cộng phái các tàu chiến đến giết hại người của họ như Trung Cộng đã từng sát hại 64 binh lính Việt Nam hồi năm 1988. Các rạng đá ngầm nằm trong phạm vi hay gần chu vi HTCCHQ là Rạng Nam Yết (Namyit Reef), Đảo Sinh Tồn (Sin Cove Island), Đảo Trường Sa (Spratly Island), Đá Tây (West Reef) sẽ là muc tiêu đầu tiên.
Đây là cách ĐCSVN chuyển giao quyền sở hữu chủ Quần Đảo Trường Sa cho Trung Cộng. Sau khi thuộc về Trung Cộng, HTCCHQ khi đó sẽ đặt ra một mối nguy hiểm nghiêm trọng cho an ninh của tất cả các nước tại Đông Nam Á và kế đó đối với mọi nước khác trên thế giới.
Trước tiên, âm mưu của Trung Cộng sẽ vô hiệu hóa một cách trực tiếp lời kêu gọi quyền tự do lưu thông hàng hải và hàng không được đưa ra bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert Gates 4 năm trước đây tại Shangri-La. Bộ Trưởng Gates cũng đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ chúng bằng vũ lực. Các tàu và máy bay của Mỹ giờ đây không thể tiền vào hay đi ngang qua Biển Đông hay Biển Nam Trung Hoa đến vùng Đông Bắc của Á Châu từ Eo Biển Malacca nếu không có sự cho phép của Trung Cộng bởi nó là “hải phận của Trung Cộng”. Và quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ tại Biển Đông được tuyên bố bởi Bộ Trưởng Ngoại Giao vào cùng lúc ở Hà Nội, sẽ bị nguy hại.
Thứ nhì, an ninh của tất cả các nước Đông Nam Á sẽ bị đe dọa một cách nghiêm trọng.
Với Hoa Kỳ, trị giá hàng hóa xuyên qua Malacca đến Biển Đông trong năm 2010 là 1,300 tỷ Mỹ Kim. Các quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn.
Tổng trị giá của tất cả các nước cộng lại là 5,000 tỷ. Do đó, nhiều cường quốc khác bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
III. HÌNH ẢNH VÀ CHÚ GIẢI BẢN ĐỒ
1) GAVEN REEF
Theo dữ liệu của AISLive data, một tàu nạo vét đã ở tại Geven Reef từ 24 Tháng Năm 2014.. Điều này tương hợp với sự trần thuyết căn bản bởi viên chức Phi Luật Tân, kẻ đã nói với tạp chí HIS Jane’s rằng ba tàu nạo vét – gồm Tian Jing Hao và một tàu khác có tên là Nina Hai Tuo – đã hiện diện tại Gaven Reef cùng với một tàu kéo lớn.
Các đồ án của Chinese Government Institute (CGI) cho thấy một phi đạo, các nhà ga cho các phản lực cơ bay nhanh, một hải cảng, các máy quạt gió, và các nhà kiếng. [Nguồn: (China State Shipbuilding Corporation), James Hardy, London and Krispen Atkinson & Richard Hurley, London and Michael Cohen, Manila – HIS Jane’s Defence Weekly, 20 June 2014)]
2 & 3 JOHNSON SOUTH REEF
Một hải cảng có thể phục vụ các tàu trọng tải đến 5,000 tấn, sẽ cung cấp đồ tiếp liệu và sự hỗ trợ cho các khu trục hạm và một phi đạo dài 1.6 cây số cho các máy bay J-11 với tầm hoạt động là 3000 cây số. Các ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy các hạ tầng cơ sở đã được xây cất: một bến tàu, các đường lộ, các ngôi nhà, các hàng cây dừa.
Diện tích của nó là 30 mẫu tây (hestares). Khoảng cách từ JSR đến Việt Nam là 800 cây số, đến Phi Luật Tân là 850 cây số, và đến Eo Biển Malacca là 1000 cây số.
CÁC CẤU TRÚC KIÊN CỐ HIỆN HỮU ( đã có từ trước)
9° 42' 50.27" N 114° 17' 9.59" E 09 43 N 114 17 E
Các cấu trúc quân sự kiên cố đã hiện hữu từ thập niên 1990. Trên mái của tòa nhà màu trắng, có hai antenna vệ tinh, có đường kính là 2.5 mét và cao 2.4 mét.
09 55 N 114 29 E
Cấu trúc Chigua không cách xa các cấu trúc được xây cất trên đảo JSR, cũng như Đảo Johnson North Reef: JNR) -- Số 2 trên bản đồ.
4) FIERY CROSS REEF
Rạng đá nầmg này dài 14 dặm (gần 26 cây số), rộng 4 dặm (7.4 cây số), nằm dọc trục Đông Bắc-Tây Nam. Khi hoàn tất, đảo nhân tạo này lớn gấp đôi Căn Cứ Diego Garcia của Hoa Kỳ tại Ấn Độ Dương. Diện tích cả vùng rong hệ thống caa8n cứ là 44 cây số vuông.
Trong Tháng Mười Một, 2014, Tạp Chí HIS Jane Defense Magazine có phổ biến một ảnh chụp vệ tinh cho thấy một phi đạo và một hải cảng. Nó dài 3 cây số và rộng 300 mét.
Ảnh chụp từ vệ tinh của Airbus Defence & Apace, chụp hôm 14 Tháng Mười Một, 2014 cho thấy rằng hòn đảo nhân tạo này tại khu vực Fiery Cross lớn hơn nhiều đảo Itu Aba hiện bị chiếm cứ bởi Đài Loan.
CÁC CẤU TRÚC KIÊN CỐ HIỆN HỮU TẠI FCR
Bộ Chỉ Huy
Cơ Sở Tiếp Liệu: Antenna với hệ thống chu kỳ 70-73 có thể hoạt động trong phạm vi đường bán kính 180 cây số. Hai cột antenna được nhìn thấy trên nóc của tòa nhà với trang thiết bị tương đương với RW2-1 của các khu trục hạm Hoa Kỳ.
Sàn Phóng Hỏa Tiễn: 116 mét x 96 mét, được dùng làm căn cứ cho các dàn phóng hỏa tiễn bắn hạ các vệ tinh của Hoa Kỳ. Antenna để truyền tin trên nóc tòa nhà.
Văn Phòng Đang xây dựng
5) CUARTERON
Các hình ảnh chưa được cung ứng
6) MISCHIEFS REEF
---------------
Nhân danh hòa bình, Chúng Tôi, Ủy Ban Bảo Vệ Sư Vẹn Toàn Lãnh Thổ:
a) Kết án các lãnh đạo ĐCSVN về việc làm tay sai cho các lãnh đạo Trung Cộng góp phần vào ý đồ bành trướng của Trung Cộng và thông đồng với chúng trong việc chinh phục các nước Đông Nam Á kể cả Việt Nam.
b) Đòi hỏi các lãnh đạo ĐCSVN rút lui khỏi vai trò một ngụy quyền cung cấp dịch vụ làm lợi cho kẻ thù của nhân dân Việt Nam và của các dân tộc yêu chuộng hòa bình khắp thế giới.
c) Kết án các lãnh đạo ĐCSTC về âm mưu bành trướng của họ. Trung Cộng nhắm vào việc chinh phục các nước khác bằng vũ lực, sáp nhập chúng vào lãnh thổ của Trung Quốc. Các tham vọng của họ là một nguyên nhân gây bất ổn trong vùng và đối với thế giới.
d) Kêu gọi một sự can dự quốc tế trong việc đình chỉ các hoạt động bất hợp pháp của Trung Cộng. Để bảo vệ các nước Đông Nam Á khỏi việc bị thống trị bởi các tham vọng bành trướng, cần đến một sự ủng hộ mạnh mẽ, tích cực và khẩn cấp từ toàn thể thế giới cho chính nghĩa này.
e) Kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ và nhân dân yêu chuộng hòa bình của Hoa Kỳ có một quyết tâm rõ rệt và mạnh dạn để đối phó với sự kiện rằng Trung Cộng đã tiến bước một cách vừng chắc đến việc nuốt gọn Á Châu và sau đó toàn thể thế giới. Nước duy nhất trên toàn thế giới có khả năng đối phó với tình trạng này chính là Hoa Kỳ.
Chính sách của Tổng Thống Obama về việc “tăng cường các liên minh cũ và trui rèn đối tác mới để đối phó với các thử thách chung” và sự tái phối trí các lực lượng quân sự tại các căn cứ khắp Á Châu và Úc Châu, cũng như kể cả đự án Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhất thiết là cần nhưng chưa đủ. Lý do bởi sự kiện rằng Tổng Thống đang suy nghĩ về việc xây dựng sức mạnh quân sự để đối phó với các thử thách theo lối chiến tranh quy ước. Vì lý do đó BIỂN ĐÔNG NAY GẦN NHƯ NẰM TRONG TAY CỦA TC. Nếu điều này xảy ra, các quyền lợi chính đáng của Hoa Kỳ như được tuyên bố bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates và Bộ Trưởng Ngoại Giao Hilary Clinton vào năm 2010 sẽ bị vô hiệu hóa. Và khó khăn cho Hoa Kỳ và thế giới sẽ khởi diễn từ đây. Nên nhớ rằng địch thủ tiềm ẩn của Hoa Kỳ có một đầu óc của một con cáo đang chơi một ván bài chiến tranh đa diện với mọi phương tiện khả hữu, ngay cả với các phương tiện vô đạo đức.
Một “Hoa Kỳ’ Lịch Sự lương thiện không thể đối phó với nó một cách hữu hiệu.
Chiến lược chúng ta cần có là một chương trình hành động thổng thể hữu hiệu để tẩy trừ triệt để căn nguyên của vấn đề./-
Làm tại California, ngày 22, tháng 1 năm 2015
Nguyễn Văn Canh, Chủ Tịch
THAM KHẢO:
Nguyễn Văn Canh, “Paracels & Spratleys and National Sovereignty”, Center for Vietnam Studies, 5th edition, 2014; và “Territorial Sovereignty and Chinese Expansionism”, Center for Vietnam Studies, 2010.
GS Nguyễn Văn Canh là cựu Giáo Sư, Đại Học Luật Khoa Sàigòn, và Học Giả Thỉnh Giảng tại Viện Nghiên Cứu Hoover về Chiến Tranh, Hòa Bình và Cách Mạng, Đại Học Stanford Un
Thư-Viện Bồ Đề Online @ Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
***
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Châm Biếm - Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện Ngắn
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử