Đòn dằn mặt của anh Hai
1, 2
Lữ Giang
Hôm 6.1.2011, Tướng Vang Pao, lãnh tụ của nhóm Hmong qua đời. Hôm 10.1.2011, Văn Phòng Công Tố Viện ở Sacramento đã đưa ra một lệnh trạng yêu cầu hủy bỏ vụ án nhóm Vang Pao “vì lợi ích của công lý” (in the interest of justice). Lệnh trạng này đã được thẩm phán Frank C. Damrell Jr thuộc tòa án liên bang khu vực chấp thuận.
Xin nhắc lại, vào tháng 11 năm 2006, nhóm kháng chiến Vang Pao đã bị FBI gài cho đặt mua 500 súng AK-47 tự động và đã bị truy tố về tội chuẩn bị chiến tranh chống lại chính phủ Lào, vi phạm Đạo Luật Trung Lập (Neutrality Act) của Hoa Kỳ.
Đây là một bài học mà “người Việt chống cộng” không thể không biết đến.
CUỘC CHIẾN VẪN PHẢI TIẾP TỤC
Người Lào hợp tác với Mỹ chậm hơn VNCH khoảng 5 năm. Phải đến năm 1960 người Lào mới thật sự dính líu tới Mỹ. Nhưng với người Hmong, cuộc chiến Việt Nam lại chấm dứt chậm hơn đối với Mỹ và VNCH.
Với người Mỹ, cuộc chiến được coi như chấm dứt ngày 27.1.1973, ngày ký Hiệp Định Paris. Với người Việt, cuộc chiến đã chấm dứt vào ngày 30.4.1975, khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Nhưng những người Hmong còn lại trên đất Lào vẫn phải tiếp tục chiến đầu để sống còn cho đến ngày hôm nay.
Khi hầu hết lực lượng phe hữu hay phái trung lập Lào đầu hàng, người Hmong vẫn không chịu buông vũ khí. Mặc dù không còn sự hỗ trợ của Mỹ. các lực lượng của Hmong đã chuyển xuống vùng đồng bằng để lập các căn cứ, tiếp tục cuộc chiến. Họ tập trung lại trong dãy núi Phu Bia, trong một tổ chức được gọi là Chao Fa và mở các cuộc tấn công vào quân cộng sản Lào dọc theo đường 13 nối liền thủ đô Vạn Tượng với cổ thành Luang Prabang ở phía Bắc, thậm chí còn tấn công các cứ điểm của Lào cách Viên Chăn chỉ có 60 cây số.
Quân đội Lào với khoảng 40.000 bộ đội CSVN đã mở nhiều chiến dịch tấn công kháng chiến quân Hmong mà họ gọi là “Phỉ Mẽo”. Đầu năm 1977, nhiều căn cứ của Hmong trên đồi bị bộ đội CSVN bao vây với sự hỗ trợ của pháo 130mm. Không quân CSVN đã sử dụng một số máy bay F-5A/E oanh tạc các căn cứ của quân Hmong. Các loại bom napal và bom bi đã được sử dụng. Sau các đợt oanh kích dữ dội, vào ngày 3.12.1978 bộ đội CSVN đã chiếm được căn cứ chính trong dãy núi Phu Bia, do khoảng 3000 quân Hmong phòng thủ.
Theo ước lượng của tổ chức Lao Human Right Council, từ 1975 đến 1992, Pathet Lào đã giết khoảng 300.000 người, trong đó có khoảng 46.000 là viên chức của chính quyền cũ, các công chức, quân nhân và gia đình của họ.
Trong hai năm 2002 và 2003, chiến dịch càn quét quân Hmong đã được đưa lên cao điểm với mục đích tiêu diệt những toán quân còn lại. Thế nhưng quân Hmong vẫn tiếp tục cuộc chiến. Ngày 6.2.2003, khoảng 30 tay súng nhảy từ cánh rừng bắn vào xe buýt bằng súng M-16 và súng phóng lựu. Những người sống sót cho biết nhóm tấn công có vẻ như người Hmong và nói tiếng Hmong. Tạp chí Time Asia ở Thái Lan cho biết một sĩ quan tại hiện trường đã kể rằng có 1 tấm thẻ phone để lên xác một phụ nữ Thụy Sĩ với dòng chữ: “Chúng tôi mất nước và đang chiến đấu giành lại.”
Vào tháng 5 năm 2003, báo Asia Times cho biết một nhóm tìm hiểu sự thật, có bản doanh ở Mỹ, đã đưa ra một bản tường trình rằng có 2 sư đoàn bộ đội CSVN đã vào bắc Lào. Từ tháng 2 đến tháng 5, đã có 739 người Hmong bị chết, 615 bị thương và 414 bị bắt.
Báo này kể lại rằng ông Moua và những người khác trong làng của ông coi năm vừa qua là tồi tệ nhất. Họ nói trong tháng 10, có khoảng 500 bộ đội đã tấn công họ từ bốn hướng ở Xaysomboune trong khi một trực thăng chiến đấu oanh tạc họ từ phía trên. Tổng cộng có 216 người Hmong đã bị giết. Các cuộc tấn công như vậy có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Tháng 8 năm ngoái, một quả đạn súng cối bay vòng rồi rơi xuống cách bàn ăn của gia đình cậu bé 9 tuổi Yeng Houa không đầy 1 mét, giết chết cả cha và mẹ em. Yeng sống sót nhưng có thể đếm được đến 18 vết sẹo do mảnh đạn gây ra trên đôi chân của em, hàm của em bị bể và có một vết thương do nhiễm trùng bên trong đùi em. Kể từ sau vụ tấn công đó em không hề nói.
Cuộc chiến của người Hmong chỉ mới được coi như chấm dứt vào đầu tháng 3 năm 2004. Bản tin bằng tiếng Lào của đài RFA hôm 3.3.2004 cho hay khoảng 300 người Hmong đã ra đầu thú tại Luang Prabang, trong đó có ba người mang cấp bậc cao. Khoảng từ 300 đến 400 ngừơi Hmong khác đã ra đầu thú tại tỉnh Xieng Khouang, trong đó có 5 cấp tướng.
Hôm 4.3.2004, trong một cuộc phỏng vấn của hảng thông tấn AP qua điện thoại, ông Sivone Yayongyia, tỉnh trưởng Xieng Khouang, cho biết khoảng 200 gia đình người Hmong cư ngụ trong tỉnh đã chấp thuận tham gia các chương trình định cư do chính phủ đề ra. Họ sẽ không trồng cây thẩu ở các vùng cao nữa, mà chịu sự quản lý của chính phủ. Ông nói rằng những gia đình đó không liên quan gì với các nhóm nổi lọan chống chính phủ cả.
Nhưng, một thủ lãnh Hmong không muốn tiết lộ danh tánh, hiện đang ở vùng biên giới bắc Thái và có liên lạc thường xuyên với các nhóm nổi dậy bên trong lãnh thổ Lào, đã cho biết trong số những người về quy thuận, có nhiều du kích quân từng chiến đấu từ mấy chục năm qua. Tuy nhiên, cũng có nhiều kháng chiến quân Hmong vẫn không chịu ra đầu hàng. Trong bài “Old U.S. allies still hiding in Laos” (Những đồng minh cũ của Mỹ vẫn còn ẩn trốn ở Lào) đăng trên tờ New York Times ngày 17.12.2007, ký giả Thomas Fuller đã kể lại rằng ông Xang Yang, một người đàn ông 58 tuổi, vẫn còn dẻo dai và có thể nhanh nhẹn bò qua bụi tre, đã nói với ông như sau:
“Nếu tôi đầu hàng, tôi sẽ bị trừng trị. Họ sẽ không bao giờ tha thứ chúng tôi. Tôi không thể sống ngoài khu rừng vì tôi là cựu chiến binh Mỹ”.
KHI GIÓ ĐỔI CHIỀU
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã cố tình để cho các tổ chức chống cộng của người Việt và người Hmong hải ngoại xâm nhập để quậy phá ở Lào và Việt Nam, làm cho hai nước đó luôn ở trong tình trạng bất ổn.
Sau khi di tản ra ngoại quốc, cộng đồng người Việt tỵ nạn đã hình thành ba tổ chức chính để “giải phóng quê hương”, đó là (1) Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do Đề Đốc Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, (2) Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam của Lê Quốc Túy và (3) Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc của Võ Đại Tôn.
Riêng Mặt Trận Hoàng Cơ Minh đã lập chiến khu tại Thái Lan và mở ba cuộc hành quân để xâm nhập vào Việt Nam, đó là Đông Tiến I (5/1986), Đông Tiến II (11/86) và Đông Tiến III (7/1989).
Tại Hoa Kỳ, Tướng Vang Pao cũng đã thành lập và lãnh đạo Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Lào (United Lao Liberation Front - ULLF) để yểm trợ kháng chiến quân Hmong ở trong nước.
Lúc đó một số binh sĩ Hmong trốn qua Thái Lan vẫn được cơ quan tình báo Mỹ và Thái Lan xử dụng. Chính lính của Vang Pao đã làm hướng đạo cho tổ chức Mặt Trận Hoàng Cơ Minh xâm nhập vào Việt Nam qua ngã Lào. Lúc đó CSVN đã phải cho khoảng 2 trung đoàn bộ độ đóng thường trực ở biên giới Lào - Thái, từ Savannakhet đến vùng tam biên, để ngăn chận các lực lượng hải ngoại xâm nhập vào Việt Nam qua ngã Lào.
Tuy nhiên, sau khi các chế độ cộng sản Nga và Đông Âu bị sụp đổ, Hoa Kỳ và các cường quốc Tây phương đã quyết định chấm dứt chiến tranh lạnh và dùng “diễn biến hòa bình” để biến các nước cộng sản còn lại thành công cụ phục vụ cho quyền lợi của họ. Hoa Kỳ đã áp dụng nhiều hình thức cưởng chế để buộc các tổ chức chống cộng của người Việt và người Hmong phải từ bỏ các cuộc đối kháng bằng quân sự và chuyễn qua “đấu tranh chính trị”.
Năm 1991, ba nhân vật chính của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh là Hoàng Cơ Định, Nguyễn Kim Hườn và Nguyễn Tấn Bình (em vợ của ông Hoàng Cơ Định) đã bị bắt và bị truy tố trước tòa án San José về 39 tội, trong đó có tội trốn thuế và tội buôn bán thuốc phiện lậu. Các nghi can phải đóng tiền thế chân để được tại ngoại. Tuy nhiên, sau khi các lãnh đạo của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh cam kết từ bỏ các cuộc đối kháng bằng quân sự, toà đã hủy bỏ (dismiss) vụ án này.
1, 2