Bốn Chục Năm Trước Hoa Kỳ – Trung Quốc Từ Thù Đến Bạn
1, 2
Trần Gia Phụng
...
Ngày 6-4-1971, Trung Quốc mời đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang thi đấu giao hữu. Khi tiếp đoàn bóng bàn Hoa Kỳ tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh ngày 14-4-1971, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai nói: “You have opened a new chapter in the relations of the American and Chinese people… I am confident that this beginning again of our friendship will certainly meet with majority support of our two peoples.” (Tạm dịch: “Quý vị đã mở ra một chương mới trong mối quan hệ giữa hai dân tộc Hoa Kỳ và Trung Quốc… Tôi tin tưởng rằng sự bắt đầu trở lại tình hữu nghị nầy giữa chúng ta chắc chắn được đa số hai dân tộc chúng ta hỗ trợ.”) (4)
Để dọn đường và sắp đặt việc Nixon thăm viếng Trung Quốc, ngày 9-7-1971, trong một chuyến công du Pakistan, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger bí mật bất ngờ đến Bắc Kinh. Theo những tài liệu mới được giải mật, trong cuộc gặp gỡ nầy, ngoài những vấn đề song phương và thế giới, Kissinger còn thảo luận với thủ tướng Chu Ân Lai về vấn đề Việt Nam. Kissinger cho Chu Ân Lai biết:
“I would like to tell the Prime Minister, on behalf of President Nixon, as solemnly as I can, that the first of all, we are prepared to withdraw completely from Indochina and to give a fixed date, if there is a ceasefire and a released of our prisoniers. Secondly, we will permit the political solution of South Vietnam to evolve and to leave it to the Vietnamese alone.” (5) (T ạm dịch: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình người Việt [tự giải quyết với nhau].”)
Trong cuộc họp hôm sau (10-7-1971), Kissinger nói thêm: “What we require is a transition period between the military withdrawal and the political evolution. Not so that we can re-enter, but so that we can let the people of Vietnam and of other parts of Indochina determine their own fate… I have told the Prime Minister yesterday, and I am willing to repeat this, that if after complete American withdrawal, the Indochinese people change their government, the U.S. will not interfere.” (6) (T ạm dịch: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở vào lại [Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ… Hôm qua, tôi đã thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.”)
Sau khi Kissinger về nước, ngày 13-7-1971, Chu Ân Lai qua Hà Nội tường trình cho những nhà lãnh đạo đảng CSVN về cuộc họp vừa qua với Kissinger và bảo đảm rằng Trung Quốc tiếp tục ủng hộ Bắc Việt Nam. (Qiang Zhai, sđd. tr. 196.) Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, Nixon lên đài truyền hình ngày 15-7-1971, công bố sẽ thăm Trung Quốc vào đầu năm tới.
Lót đường cho chuyến thăm viếng hữu nghị sắp đến, Hoa Kỳ không phủ quyết cuộc biểu quyết tại Đại hội đồng thứ 26 của LHQ ngày 25-10-1971, theo đó CHNDTQ được cử giữ ghế đại biểu Trung Quốc tại LHQ thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Sự kiện nầy có nghĩa là Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Đài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với CHNDTQ. Cần để ý thêm là Trung Quốc giữ ghế hội viên thường trực, có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ.
Như thế, từ năm 1971, tức cách đây đúng bốn chục năm, Hoa Kỳ từ thù trở thành bạn của Trung Quốc. Lễ vật cho tình bạn mới nầy là Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và bỏ rơi luôn VNCH. Trung Quốc biết điều đó. Chắc chắn nhà cầm quyền Hà Nội cũng biết điều đó. Chỉ có chính phủ VNCH không biết điều đó, dầu điều đó là khởi đầu sự sụp đổ của VNCH.
TRẦN GIA PHỤNG
(phungtrangia@yahoo.com)
CHÚ THÍCH
1. John S. Bowman, tổng biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc từng ngày], New York: Mallard Press, 1989, tr. 49.
2. Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 182.
3. Richard Nixon, The Memoirs of Richard Nixon, New York: Grosset & Dunlap, 1978, tt. 546-548..
4. Henry Kissinger, White House Years, Boston:Little, Brown and Company, 1979, tr. 710.
5. Trích biên bản cuộc họp ngày 9-7-1971 tại Bắc Kinh giữa Henry Kissinger và Chu Ân Lai.) (Đăng lại trong Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa Chấn Minh, 2010, tr. 617.)
6. Trích biên bản cuộc họp ngày 10-7-1971 tại Bắc Kinh giữa Henry Kissinger và Chu Ân Lai.) (Đăng lại trong Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 624.)
1, 2