lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tưởng-Niệm 50 Năm:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Trang Trần-quốc-Kháng_Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Cây có cội, nước có nguồn. Toàn dân Việt-Nam ngàn đời ghi nhớ ân đức Quốc Tổ Hùng Vương

Điện-Ảnh - Hồi-Ký - Nghệ Thuật - Sáng-Tác - Thơ Văn - Triết-Học - Truyện

 

35 Năm Mất Đất

Vĩnh Nhất Tâm

MÀU VONG QUỐC

Màu Vong Quốc vẫn trùm lên nước Việt
Dải biên thùy: Bản Giốc, ải Nam Quan.
Nay Hoàng Trường thuộc hải phận Nam bang
Ðã vùi dập theo “công hàm bán nước”

Con dân Việt kẻ theo sau tiếp trước
Giữ cơ đồ là bổn phận thiêng liêng
Không làm ngơ lúc tình thế đảo điên
Do phỉ cộng rước voi dày đất tổ.

Những Người Trẻ đang ngậm hờn khốn khổ
Trong ngục tù đòi hơi thở tự do
Cho toàn dân quyền sống với cơm no,
Ðã mất mấy mươi năm trời chịu đựng.

Bọn man rợ thứ hung đồ bất xứng
Phản giống nòi: tội bán nước, buôn dân
Không thể nào để chịu những hàm oan
Hãy chung sức trong ngoài lo cứu quốc.

26.01.08 (Thi tập: Cõi Lòng)

NAM QUAN

Ôi thương thay mảnh cơ đồ
Chỉ còn danh nghĩa, đất hờ ấy thôi.
Nam Quan nay đã mất rồi
Chúng đem dâng hiến để “ngồi” cho yên
Nước Nam từ thuở khai thiên
Chưa bao giờ đến ngả nghiêng thế này
Con dân chịu cảnh đọa đày
Một bầy lang sói ra oai trị vì.

Vĩnh Nhất-Tâm  (2000)

HÁN TẶC

Hán tặc tràn sang trên đất Việt,
Chủ quyền lơ lững nước về đâu?
Nghiệp xưa, ai làm mờ danh tiết?
Phải lũ hung đồ #1 đi rước Mao #2?

“Thống nhất” giang sơn, nay đã  rõ,
Hồ, Đồng;  Chính, Giáp: bán non sông
Giết bao thế hệ #3 tô cờ đỏ,
Phản bội tiền nhân, hại giống dòng.

Sử Việt ngàn thu lưu sử sách;
Trưng..,Ngô, Lê; Lý, Nguyễn #4; Lê, Trần
Đuổi quân xâm lược tan  hồn phách,
Giữ vững cơ đồ,  một cõi Nam.

Việt Cộng: rước voi giày mả tổ,
Tức thù truyền kiếp của xưa nay..
Quả là một lũ làm tôi tớ!
Trơ mặt, cúi đầu  nhục  chửa hay!

Dân Việt trong ngoài không quên lãng,
Bao nhiêu công khó dựng cơ đồ.
(Tiền nhân, từng lớp phơi xương trắng
Dân Việt ngàn năm đổ máu đào).

Cửa ải nước Nam nay đã mất,
Côn đồ phỉ cộng đã đem dâng.
Còn trân mắt thịt nhìn lơ láo,
Thái thú đầy trong Bắc phủ đình.

Vĩnh Nhất-Tâm 5.3..2010

VIỆT TỘC VÙNG LÊN

Nước Nam lừng lẫy thời hưng quốc
Dấu ấn ngàn năm đuổi Bắc phương
Uy dũng oai phong lưu sách sử
Lằn ranh Việt, Hán! Nhớ Trưng Vương.

Dẹp yên phương Bắc, nhưng  chưa dứt
Nghiệp lớn còn  đang...đâu đã xong!
Ðại-đế Quang Trung vì sớm thác...
Ngậm ngùi non nước lại tang thương .

Trời Nam, sau đó màu dâu bể,
Nguyễn Ánh thừa cơ rước Pháp về
Non nước thêm lần nhơ quốc thể
Trăm năm giặc Pháp hại thảm thê.

Chẳng may, vận nước còn  tăm tối
Gặp kẻ gian hùng hại núi sông
Mang kẻ thù chung về phản bội
Nằm hang Pác-pó hại giang sơn.
                                                                                                   
Bốn Lăm  (1945), thủa ấy muôn dân đợi
Non nước cờ thiêng giống Lạc Hồng
Từ Bắc chí Nam bay phất phới
Ai ngờ  bến hải một dòng sông…

Chia đôi đất Mẹ. Làm tôi tớ…
Quốc Hận Năm Tư (1954) đâu dễ quên.
Hồ tặc rước voi dày đất tổ;
Tàu, Nga. Chủ thuyết Mác, Lê-nin.

Bảy Lăm Quốc Hận (1975) loang màu máu
Lịch sử quay cuồng, xương trắng phơi
Tù ngục mọc đầy ai chịu thấu
Oan hồn rên xiết khắp trùng khơi.

Nước Nam hoang phế, thành trơ trụi
Một đám hung đồ đâu hiểu chi?
Hán Cộng sai đâu nghe tới đấy,
Làm sao mệnh nước chẳng suy vi.

Bao giờ Việt-tộc vươn lên nhỉ!
Chẳng lẽ ngồi xem Bắc thuộc sao?
Hán Cộng bây giờ ghê tởm lắm!
Tần... xưa, nay lại tái sanh Mao.

Vĩnh Nhất-Tâm30-4-2000 (Thi tập Cõi Lòng)

TỘI PHẢN QUỐC

Hai mươi năm lẻ #1 đánh thuê,
Nhân danh chủ nghĩa: “Mác Lê đại đồng”.
Các ngươi #2 đi bán non sông,
Hô hào chống Pháp cướp công: Cao Trào #3.
Đi làm đầy tớ cho Mao,
Kẻ thù truyền kiếp, khác nào Hán xưa.
Hồ, tên phản quốc có thừa,
Đồng tình một lũ toàn là bọ hung #4.
Phản cha ông, chẳng ngại ngùng,
Sau ngày cắt đất #5, sai Đồng #6 đem dâng.
Hoàng Trường Sa của nước Nam,
Công hàm bán nước #7, rõ ràng chẳng sai.
Nhớ ngàn năm sử đã ghi:
Trưng Vương Nhị Vị... đến thời Ngô Vương.
Nam bang lừng lẫy một phương,
Ngọn cờ độc lập, con đường #8 quốc gia.
Trải bao triều đại Nước Nhà,
Trưng, Ngô;  Lê, Lý; Trần,  Lê; Nguyễn triều #9
Trước sau cùng đuổi Hán triều,
Giang sơn Đại Việt riêng bầu trời Nam.
Bây giờ Bắc bộ Việt gian,
Khác nào thái thú, tay chân của Tàu.
Đồng bào ơi, hãy cùng nhau,
Nhìn chung một điểm: nỗi đau vĩnh trường.
Nếu không phân rõ phong cương #10,
Tính từng tấc đất Viêm phương #11 bao đời.
Đến khi Tàu đạt chữ “thời” #12,
Về sau con cháu từng đời chung thân?

Vĩnh Nhất-Tâm 16.1.2010

#1- 1954-1975
#2- Chỉ Hồ, Đồng, Chinh, Giáp...
#3- Những cao trào chống Pháp từ năm 1865 đến 1945.
#4- Chỉ loại bọ cánh cứng, sống ở rừng ẩm, thân tròn và đen, có mùi hôi, thúi thường chui rúc dưới đất,  hoặc nơi có phân, tro.
#5- Chỉ ngày cắt đất nước ra làm hai mảnh (20.07.1954)
#6- Chỉ PhạmVăn Đồng. Độc giả muốn hiểu thêm về tên tuổi của Phạm Văn Đồng là ai, thì vào nghe: lời tâm tình và kêu gọi của cựu Đại tá Cộng Sản Đào Văn Nghệ đối với đảng viên Cộng Sản VN đứng lên lật đổ chế độ CS.
#7- Theo đài: BBC Tiếng Việt đã hỏi tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đang sống ở Hungary. Đầu tiên ông giải thích hai quan điểm khác nhau của Bắc Việt trong thập niên 1950 và 1974, năm Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc.”
#8- Chủ quyền quốc gia
#9- Hai Bà Trưng mở đầu kỷ nguyên đánh đuổi Hán tức là Đông Hán, lập nên Nhà Trưng; Ngô Quyền thủy táng trăm ngàn quân Nam Hán, chưa lập nên Nhà Ngô, thì Ngài đã qua đời; và không quên công nghiệp thống nhất giang sơn về một mối của Vạn Thắng Vương tức là Đinh Bộ Lĩnh và lập nên nhà Đinh; Lê Hoàn lên ngôi tức là Lê Đại hành, mở kỷ nguyên phá Tống, bình Chiêm, và lập nên Nhà Tiền Lê; Lý ‎Công Uẩn tiếp nối Nhà Tiền Lê, lập nên Nhà Hậu L‎ý và từ Hoa Lư dời đô về Thăng Long. Tiếp tục cuộc hưng quốc trong việc phá Tống, bình Chiêm của Tể phụ Lý Thường Kiệt; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn thống lĩnh quân Đại Việt vào thời Nhà Trần, đã ba lần Ngài đánh bạt quân Mông Cổ ra khỏi đất nước (xin xem bài thơ: Trận Thư Hùng kèm theo) ; Lê Lợi và Mưu thần Nguyễn Trãi, mười năm kháng chiến đánh đuổi giặc Minh, lấy lại nước, sử gọi là thời Minh thuộc, và lập nên Nhà Hậu Lê; Nguyễn Huệ (Nguyễn triều: chỉ triều đại Nguyễn Tây Sơn, sau khi toàn thắng gần ba trăm ngàn quân Mãn Thanh) trước khi lên đường ra Bắc để đánh đuổi gần ba trăm ngàn quân xâm lăng của Mãn Thanh trong vòng bảy ngày, Ngài tự lên ngôi là Hoàng Đế Quang Trung.

Chúng tôi xin đôi dòng tóm tắt về sự nghiệp của Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ như sau:

Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi chúa Nguyễn, và đã đến lúc thời vận chúa bắt đầu vào giai đoạn suy vi, và cộng thêm tên quyền thần Trương Phúc Loan, đã làm những điều bại hoại,  dân chúng không chịu nổi nếu không muốn nói là ngóc đầu lên không nổi với tên quyền thần Trương Phúc Loan này. Vì sự tham ô bạo ngược không sao kể xiết được. Cũng chính trong thời điểm này nhờ vận mệnh đất nước lại sinh ra một ngôi sao sáng tức là anh hùng Nguyễn Huệ (cùng người anh là Nguyễn Nhạc, và người em  Nguyễn Lữ). Trong một thời gian ngắn sau đó, Ngài trở thành một Hoàng Đế, phải nói là một vị Hoàng Đế tài ba lỗi lạc, và cũng là một thiên tài quân sự về mặt thần tốc, bước vào sự nghiệp thật to tát: “Binh Nam Chỉnh Bắc”. Công cuộc Bình Nam Chỉnh Bắc của Ngài phát xuất từ tiền đề: Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài non hai thế kỷ (1600- 1765, tính từ Nguyễn Hoàng xin Trịnh Kiểm vào trấn mặt Nam cho đến khi Nguyễn Phúc Khoát qua đời).

Lúc bấy giờ Mãn Thanh đang trên đà đánh chiếm Tàu tức vào thời nhà Minh. Khi Mãn Thanh chiếm được nước Tàu thì phương Nam, sự phân tranh của Nguyễn Trịnh chưa chấm dứt. Vua Càn Long vừa là một vị vua giỏi của Mãn Thanh, đã đủ thế lực sau một thời gian khá dài khi chiếm được nước Tàu, và đã yên bề một đế quốc, thì gặp lúc Lê  Chiêu Thống sang cầu cứu quân Mãn Thanh về chuyện đánh Nguyễn Huệ. Nguyên nhân không cần suy diễn cũng biết vua Lê Chiêu Thống chỉ nghĩ đến ngôi báu của nhà Lê, và cho chính bản thân mình, hơn là sự nguy hại đối với tiền đồ đất nước và chủ quyền của dân tộc. Như mọi người, ai từng nghĩ đến sự sống còn của dân tộc cũng đều thấy rõ như ban ngày. Là nước Tàu đã trải qua bao nhiêu triều đại, đều nhắm về phương Nam tức là nước Đại Việt ta để hòng xâm lăng và thống trị, bằng mọi cách, và dưới mọi hình thức, mà lịch sư đã minh chứng một cách rõ ràng.
(Đặc biệt chú thích này, chúng tôi xin mạn phép dành riêng cho các bạn Trẻ trong và ngoài nước).
#10- Chỉ bờ cõi.
#11- Chỉ nòi giống ta từ thời tiền Việt tức vua Viên Đế mở nước.
#12- Chũ thời ‎ý tác giả muốn nói rõ là khi đến thời điểm chín mùi chúng trở bàn tay, thì  khác nào Tây Tạng trong bối cảnh ngày nay.

BA MƯƠI MỐT NĂM ÐỌA ÐÀY

Ba mươi thêm lẻ rồi em nhỉ!?
Mệnh nước còn trong nỗi đọa đày
Biết đến bao giờ dân thoát khỏi?
Một vòng nô lệ bọn tay sai!

Ba mươi thêm lẻ trên toàn cõi
Nước Việt trầm luân, cảnh bể dâu.
Một lũ mang voi dày đất Tổ
Nước càng nhỏ lại, nước về đâu?

Ba mươi thêm lẻ thời đen bạc
Ai thấu lòng cho cảnh nước non?
Dân sống một đời... dân khổ ải
(Trai làm nô lệ, gái buôn thân)

Ba mươi thêm lẻ, ai dân Việt!!!
Nhìn cảnh quê hương chẳng động lòng???
Muôn triệu dân lành kêu thảm thiết
Nước buồn cau mặt cảnh suy vong.

Vĩnh Nhất Tâm 30-04-2006 (Thi tập Cõi Lòng)

ÐỒNG TÂM  LẤY LẠI NON SÔNG

Tiền nhân từng lớp đem xương trắng
Dân Việt ngàn năm đổ máu đào
Tô điểm non sông, trừ giặc Hán
Mà sao hùng khí đất thiêng đâu?

Ðể cho một lũ làm tôi tớ
Dâng ải Nam Quan tuyến địa đầu
Lãnh hải, Hoàng Trường đem trả nợ
Sau ngày “Quốc Hận” của “Năm Tư”

Quyết không để giặc làm hoen ố:
Sử Việt ngàn năm máu vẫn sôi!
Việt-tộc muôn đời thương đất Tổ
Anh hùng liệt nữ vẫn muôn nơi.

Dù cho trời đất xa muôn dặm
Máu chảy trong tim vẫn Lạc Hồng
Giữ một lòng son vì Quốc Nạn
Ðường về cố-quốc vẫn hằng mong!

Ðường về cố-quốc phải thành công!!!
Ðồng tâm lấy lại toàn non nước
Chữ “S” giang sơn của Tiên Rồng
Diệt lũ gian manh, loài phản quốc.

Cam làm tôi tớ bán non sông
Buôn dân, vơ vét…loài man rợ
Bán trẻ thơ ngây chửa biết gì...
Quả tội tày trời quân giặc đỏ!

Bán người rao cả  “Lưới Ebay.”
Vĩnh Nhất Tâm 30.04.2004 (Thi tập Cõi Lòng)

ẢI NAM QUAN ÐÂU NHỈ?

Ðồng bào ơi! Ai buôn dân bán đất?
Ải Nam Quan vùng chiến lược địa đầu
Dâng cho Tàu, ôi quả thật là đau
Còn đâu nữa! Nam Quan ngàn năm trước.

Hỡi các bậc sĩ-phu trong ngoài, nước
Vì Tiền nhân xin cùng cất bước đi
Ðã hết rồi! Vận nước rất suy vi!
Chờ ai nữa? Ải Nam Quan đã biến!

Ngô, Lê, Lý; Hậu Lê, Trần, Tân Nguyễn (Huệ)
Ải Nam Quan là cửa tử quân thù
Trải bao triều, phương Bắc đã trơ trơ
Vì khiếp sợ chúng không hề bén mảng.

Nay bọn ác, thứ phỉ quyền cộng sản
Kẻ tội đồ đã giết hại nhân dân
Ðất tổ-tiên đem đi bán từng phần
Ai dân Việt không hận thù chứ nhỉ?

Giờ đã điểm! Xin triệu người một ý
Ý  “đồng tâm” thuở “Hội Nghị Diên Hồng”
Khắp trong, ngoài đặt chủ đích non sông
Trên tất cả những lợi quyền riêng biệt.

Chỉ có thế mới giữ tình bất diệt,
Tình quê hương, tình không của riêng ai!!!

30.04.2000 (Thi tập Cõi Lòng)

VÙNG LÊN
 
Giữa cõi trần ai, ai thấu cho?
Việt gian cộng sản bán cơ đồ
Nhân danh “giải phóng” do Mao xúi, 
Thạch Hãn (1) đôi bờ sóng đẩy xô. 
 
”Sinh Bắc tử Nam” đường diệt chủng 
Cáo Hồ rước Mác, dựng cờ  Mao 
Tấm thân khuyển mã còn xưng "bác", 
Phản bội tiến nhân, rước giặc Tàu
 
Nay cõi giang sơn đầy Hán tặc
Ai người thương nước: há ngồi trông!
Biên cương, hải phận Tàu xâm chiếm, 
Địa thế Cao Nguyên, chúng (2) vẫy vùng
 
Nước Việt đang bên bờ vực thẳm 
Con đường vong quốc sẽ theo sau. 
Hỡi người dân Việt trong ngoài nước 
Tất cả vùng lên đáp nghĩa sâu (3)!

Chu Đệ (4) thời Minh giờ tái xuất
Cẩm Đào tráo trở đã xâm lăng
Gặp toàn một lũ (5) làm tôi tớ,
Bán Nước buôn Dân trả nợ nần.

Công khó tiền nhân mười thế kỷ
Đuổi thù giữ nước biết bao phen
Tiếp theo Lê, L‎ý‎, Trần, Lê, Nguyễn (6),
Đuổi Tống, Nguyên, Thanh mất cả hồn.

Quả Giáp xưa nay con múa rối!
Theo Hồ chẳng biết nước về đâu?
Cũng không cần hiểu bao thời trước,
Cả mấy ngàn năm đuổi giăc Tàu.

Non nước lâm nguy càng chứng tỏ
Một đời làm tướng chỉ mua danh
Để cho Tàu Cộng nay thao túng!
Thái thú đầy trong Bắc-phủ-đình.

Mau hãy vùng lên giành độc lập
Trong ngoài dân Việt giống hùng anh
Bừng bừng trang sử luôn canh cánh
Ngọn đuốc DIÊN HỒNG rạng sử xanh


Vĩnh Nhất Tâm 21.5.2009 
 
(1) Dòng sông Bến Hải do HCM nghe theo lệnh MT  Đông mà HCM chia đôi  nước Việt từ  vĩ tuyến 17 và tiếp tục giúp cho HCM và đàn em chiếm được miền Nam, do sự đồng tình của chính quyền Mỹ để khai tử miền Nam.
Và nay đàn em  Mao thừa cơ hội bành trướng về phương
 Nam (nước Việt), do bàn tay sai ngoại tộc (tay sai cho Tàu)  là đầu mốc cho cuộc xâm lăng không  tiếng súng, bắt nguồn từ sự  phản bội tiền nhân và dân tộc của bè lũ  Việt gian Bắc-bộ-phủ.
(2) Chỉ CS Tàu
(3)Nghĩa cử cao sâu như là bổn phận thiêng liêng đối với sự tồn vong của dân tộc.
(4) Chu Đệ tức là Minh Thành Tổ từng lót đường bằng cách là  sai 2 tướng là Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5000 quân đưa Trần Thiêm Bình về nước để mở đầu cho cuộc xâm lăng và chiếm luôn nước Nam trong suốt 20 năm  (1407-1428).
5) Chỉ bọn Bắc bộ phủ
(6) Hồ Cẩm Đào luôn luôn là tên khát máu đã từng là một tên sát nhân đối với nhân dân Tây Tạng, đã phải dở sống dở chết vào năm 1988. Cũng chính vì sự xuất sắc về thủ thuật sát nhân tại vùng đất Tây Tạng từ trước, mà sau được lên nối ngôi chủ tịch nước Tàu thay Giang Trạch Dân để tiếp sứ mệnh bành trướng nước Tàu về phương Nam.
(7) Nhà Tây Sơn

 VỌNG NGOẠI LÀ TỰ SÁT

Lạc Hồng, trang sử ngàn năm
Giang sơn một cõi...cháu Tiên, con Rồng.
Ải Nam Quan, thế biên phòng
Bao triều phương Bắc lâm vòng thây phơi.

Ngàn thu không đội chung trời
Xưa nay Việt Hán, hai trời đối nhau.
Thư hùng, mấy trận trước sau
Bắc Nam  “bờ cõi phân mao” rõ ràng.

Tổ Tiên cơ nghiệp vững vàng
Non sông  hùng vĩ, trời Nam vang lừng.
Tiếc thay sự nghiệp Quang Trung
Còn đang dang dở, hóa công an bày...

Băng hà vào lúc nghiệt thay!
Não nùng non nước, phủ đầy tang thương.
Gặp Nguyễn Ánh lúc tranh vương,
Nhờ vào nước Pháp, tìm phương san bằng

Thắng Tây Sơn, được ngai vàng
Sau năm thập kỷ thực dân thay lòng?
Mấy đời hậu bối Gia Long
Non sông nghiêng ngửa giữa dòng trầm luân.

Bắc-Trung-Nam, khắp ba miền
Anh hùng hào kiệt gắn liền máu xương
Sáu mươi năm, một chiến trường
Toàn dân nước Việt đuổi phường thực dân.

Trận sống mái, đảng Quốc Dân
Tinh thần Yên Bái máu loang sơn hà.
Đoạn đầu tận số Mười Ba
Muôn dân căm phẫn, xông pha diệt thù.

Bừng bừng “Cách mạng Mùa Thu”
Vừng hồng độc lập, tinh mơ chưa tròn.
Chẳng may, loại ốc mượn hồn 
Theo đuôi chủ thuyết: vô thần Mác-Lê

Bán dân, hại nước thảm thê
Mượn danh chống Pháp, dễ bề mị dân.
Thừa cơ tiêu diệt từng phần
Những nhà Ái-quốc vì dân một lòng.

Đuổi thực dân, cứu giống dòng
Than ôi! Bi thiết, nỗi lòng ai hay?
Ngấm ngầm “ném đá giấu tay”
“Tinh thần”  vọng ngoại có ai  hơn Hồ?

30.04.1980 (Thi tập Cõi Lòng)

NHẬN CHÂN SỰ THẬT

Bọn cưỡng chiếm thôi phân bua chi nữa
Vượt Trường Sơn, mục tiêu ấy vì ai?
Ðem lương tri mà xét lại đúng sai
Cả Nam Bắc, hai miền chung số phận.

Ai là kẻ gây nên trời uất hận?
Rước Mác-Lê, một chủ nghĩa vô thần,
Chia hai trời, đoạt lấy nửa giang san
Thành quốc cộng để Tàu, Nga sai khiến.

Thứ ngu xuẩn đã làm cho quốc biến
Tội tày trời còn biện bạch ai nghe?
Hơn phần tư thế kỷ vẫn lê thê
Dân nghèo túng, nước ngày thêm nhỏ lại.

Hãy thẳng thắn để nhận chân sai trái
Cả trong ngoài vì đại thể chung lo
Ðừng tốn công thưa gửi bọn côn đồ
Chuyện dâng đất chúng còn chưa biết sợ.

Nay thực tế đã phân bày tỏ rõ
DÂN TỘC chỉ cần hai chữ TỰ DO
Triệu triệu người ai sợ, ai so đo?
Hãy thẳng thắn cùng đứng lên lấy lại.

30-04-1995 (Thi tập Cõi Lòng)

TÂM SỰ CÙNG EM

Quê hương Việt, bên kia bờ biển Thái
Nay biến thành địa ngục của trần gian.
Mấy mươi năm với chủ nghia vô thần,
Đã đảo nguợc cả luân thuờng đạo lý.

Có phải vậy không em? Buồn quá nhỉ!
Những phố phường, hàng quán của ngày nao.
Có còn chăng...chỉ trong giấc chiêm bao,
Anh tin chắc cỏ cây còn ủ rũ.

Và đâu nữa những bạn thân, thầy cũ,
Những con đuờng hoa trắng có còn không?
“Ðảng” bắt đi... đày đến những nông truờng
Biến muời ngón tay thon thành… sỏi đá

Hẳn Em biết nhiều hơn anh hết cả;
Một “thiên đuờng Cộng Sản” quá điêu ngoa.
Chúng bắt Em: con“ngụy”phải thi đua,
Hòng tẩy não thành “cháu ngoan của Bác”

Em tuyệt đối không thể nào con “ngụy”,
Vì cha Em đâu theo Mỹ, Tàu, Nga
Ruớc ngoại nhân vào chuốc khổ trầm kha,
Phá luôn cả giang sơn và tổ quốc.

Cha của Em là nguời lo giữ nuớc,
Ðịnh nghĩa thế nào Cộng bảo “ngụy  quân”?
Phường loạn ngôn nên dân mãi cơ hàn,
Ai cũng rõ trò trả thù, ngược đãi .

Chúng chém giết bất nhân,  không hối cãi,
Phản tiền nhân còn dìm cả giống nòi.
Để ngoại nhân sai bảo tợ tôi đòi,
Mà cứ tuởng mình đứng ngang thiên hạ.

Còn cấm vận thu hồi... đâu có lạ?
Mở thương trường đường rộng rải ăn chơi.
Đóng thêm đinh, cửa “Ngục” đến ngạt hơi,
Gom tiền của, mặc tình tiêu hoang phí.

Thật ấu trỉ, một “thiên đường” quái quỷ
Dân càng nghèo, xã hội lắm đảo điên.
Vác đau thương,  mang trên cổ xích xiềng
Vì “ơn đảng” nên khổ DÂN, mất NUỚC?

Em là một chứng nhân cho đất nuớc,
Từ trong tay của lũ giặc vô thần:
Đi  đến truờng nhồi sọ “Mác-Lê-nin”
Chiều về thấy tên côn đồ “vĩ đại”

Anh cảm phục tuổi em dù nhỏ dại,
Sống trong bùn vẫn trong sạch như sen.
Chẳng nhuộm màu, chẳng tráo trở, bạc đen,
Nên tâm sự với em lòng nhớ nước.

Hơn mười năm như xa dần từng bước
Lòng dặn lòng từ ngày vuợt biển Ðông
Phải cứu dân ra khỏi ách cùm gông,
Đưa dân tộc thoát khỏi hầm tai vạ.

Thôi chừng ấy, dòng thơ anh tâm sự:
Nỗi niềm đau viết bằng máu thấm hồn.
Trao tặng em mang dòng máu Triệu, Trưng,
Mưu trí lớn, anh thư dòng giống Việt.
  
Nhớ nghe em! Dẫu mai nầy cách biệt,
Kẻ đầu non, người cuối bể: một lòng.
Quyết đấu tranh cho nòi giống Tiên Rồng
Cho Việt-tộc sớm thanh bình hạnh phúc.

Viết sau ngày Mỹ “bỏ  cấm vận” 1990 (Thi tập Cõi Lòng)

GIẢI PHÓNG

Ngày “giải phóng”, ta làm Người Mất Ðất?
Sống lang thang trên xứ lạ không Nhà
Nơi quê hương giòng nước mắt Mẹ già
Ðêm trăn trở... trông con mòn năm tháng.

Ngày “giải phóng”, ta sống đời Tỵ Nạn
Bỏ Mẹ hiền ngày tháng đợi chờ mong
Cả vợ con, có ngày thấy, ngày không
Cứ như thế mà đó đây: chí cả...

Ngày “giải phóng”, ta ôm tình biển cả
Nghĩ quê hương khi dân tộc đọa đày
Mơ chí lớn theo tinh thần YÊN BÁI:
“Sống vì dân và chết cũng vì dân.”

Ngày “giải phóng”, ta nửa đời lận đận
Nơi xứ người, lòng chất nặng niềm đau
Đến bây giờ đất nước vẫn chìm sâu...
Trong uất hận, làm thân Người Mất Ðất.

Ngày “giải phóng”, ta nửa đời lây lất
Cùng dăm ba người trẻ quyết kiên cường
Dù cuộc đời phải đối diện thê lương
Lòng vẫn sống hiên ngang, tình máu Việt.

Ngày giải phóng đã làm tan nước Việt
Khiến toàn dân lòng căm hận vô biên
Biết bao giờ đất nước được bình yên?
Cho dân tộc thoát khỏi vòng lao lý.

Ngày “giải phóng”, ta nhớ Người Yên Bái
Thắp lửa thiêng trong khí thế siêu phàm
Tiếp tiền-nhân đi lấy lại giang san
Trong tay giặc, bọn thực dân thống trị.

Sau “giải phóng” người-anh-hùng tuổi trẻ
Ðốt lửa thiêng để tiếp bước phi thường
Theo tinh thần Yên Bái: cứu quê  hương:
Trần Văn Bá  sáng ngời trong thế kỷ.

Ta mài bút biến thơ thành vũ khí
Lấy đau thương hun đúc chí can cường
Thơ đêm ngày canh cánh với quê hương
Quyết tiêu diệt: quái thai loài quỷ đỏ.

18.02.08 (Thi tập Cõi Lòng)

OAN HỒN

Biết bao nhiêu triệu oan hồn  
Hồn còn vất vưỡng giữa dòng biển Ðông
Nhà tù, biên giới, ven sông
Ðường rừng chạy giặc, kẻ còn người không
Biết bao số phận má hồng!
Văn minh bác đảng “gả” chồng ngoại bang
Thế tình còn lắm gian ngoan
Trừ khi Cộng phỉ không còn vãng lai
Trải qua mấy chục năm nay
“Ðại đồng” đau khổ! Ðúng là giả nhân!.

4-2003 (Thi tập Cõi Lòng) 

BỘ PHẬN NGOẠI TỘC

Ngoài “chống Pháp”,  trong: Hồ (*) nhận giặc
Tạo con đường, ắt phải tai ương.
Rước: Canh, Bưu, Nghị, Anh, Hoài Ðức...
Hồ cứ ngoa: “Độc lập”? Khó lường!

Tướng Võ (Nguyên) Giáp tài đâu? Nối giặc!
Khiến biên thùy mới lõm vào sâu.
Ðể cho Hán Cộng bên thành Bắc
Dời mốc Nam thùy, quá xót đau.

Trường Chinh là kẻ siêu gian ác
Sách lược giết người không ngớt tay.
Bất kể giống nòi hay “Ðặng” tộc
Miễn là chiến sách “đảng” khen hay.

(Phạm)Văn Ðồng xuất sắc là lươn lẹo
Từng đã gian ngoa để kiếm danh
Ðem cả Hoàng Trường giao khéo léo
Một đời chỉ biết thói gian manh..

Mà sao thin thít, không ai dám...?
Cứ để Cộng Tàu ếm xác khô.
Một lũ “đười ươi”,  phường ác hiểm
Suốt đời ôm phận bọn làm nô.

Giờ đây ngoảnh lại xem thành quách
Bờ cõi ngàn năm luống đợi chờ!
Con cháu hùng anh, dòng khí phách
Lẽ nào hờ hững mãi làm ngơ.

(*) Bắc-bộ-phủ
(*)  Trung Cộng đã gửi một phái đoàn cố vấn sang giúp Bộ Tư Lệnh  Việt Minh. Ðại tướng Trung Cộng Trần Canh, một trong Ngũ hổ tướng  của Mao Trạch Ðông (Trần Nghị, Lâm Bưu, Bành Hoài Ðức, Diệp Kiếm Anh, Trần Canh)  đã có mặt tại Việt Nam...(theo Nghiêm Kế Tổ -  Việt Nam Khói Lửa trang 339)

PHẢN QUỐC

Hỡi bầy phản quốc làm tôi tớ (1)!
Ba triệu người dân bỏ núi sông
Phiêu bạt năm Châu tìm đất sống
Sau ngày “giải phóng” bị cùm gông

Rất là sơ đẳng nên ghi nhớ !
Dân Việt quyết đòi không thả trôi
Thứ nhất: quay về văn hóa Tổ...
Thứ hai: ngờ nghệch, ngoại bang cuời

Xóa đi chủ nghĩa vô thần Mác
Giật sập lâu đài: di sản Mao
Dẹp cả Ba Ðình, lăng của “bác”
Mới mong hóa giài được đời sau.

Những vùng đất, biển âm thầm ký
Ðổi lấy quyền uy để hại dân
Không thể ngược đời như thế được!
Ngàn năm Đại Việt chống xâm lăng.

Hỏi ai làm tướng đâu phương lược
Trấn ở biên thùy, chiến thuật đâu?
Cửa ải Nam Quan muôn thuở truớc
Giờ đây im bặt, tưởng yên sao?

                   ***
Các ngươi có hiểu gì nô lệ?
Sống cảnh “làm dâu” ở Ðại Loan (2)
Ðộc địa vô cùng do đảng trị
Buôn dân, buôn đến cửa lầu xanh.
                     
Còn về Tôn Giáo do tâm đạo
Nhất mực, muôn lòng khó đổi thay
Ðừng lấy đảng quyền chơi bá đạo
Vẽ trò múa rối (3) bọn tay sai.

Non sông muốn được lân bang nễ
Phải biết hiệp chung mới dựng xây
Sức mạnh toàn dân là gốc rễ
Ngàn năm lịch sử, chẳng thua ai.

Ðừng mơ ấu trỉ như Hồ phỉ !
Rước cả Tàu, Nga phá nuớc non
Tư tuởng  Mác Lê càng nghịch lý
Thế mà  “trí thức” lại tô son...

Chính vì mơ tưởng toàn hư ảo
Vượt dãy Truờng Son chém giết nhau
Chẳng hiểu chi mô về chính đạo
Liệt cường mấy nuớc, chúng chia nhau?

Tội cho lớp trẻ nào đâu biết !
Một đám văn nô, một lu khờ
Nhồi sọ thuở còn chưa biết viết:
 “Bác Hồ” “thần thánh” mãi tung hô...

Các ngươi chưa biết gì vinh nhục?
Mỗi lúc ra ngoài bị  tấn công
Cả một rừng cờ bay phất phới
Chui đầu chạy trốn cửa sau hông.

Làm sao dấu mãi lương tri chứ ?
Thế giới ngày nay đã hiểu sâu
Nuớc Việt, Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ
Là nền nhân bản tự ngàn xưa.

30-4-2005
(1) Nhân danh cuộc đánh đuổi thực dân Pháp chỉ là lấy cớ để dễ bề mị dân. Chẳng khác nào câu: “Đuổi beo cửa trước, rước hùm cửa sau”
(2) Đại Loan là Đại Hàn và Đài Loan
(3)Tác giã muón ám chỉ “thiền sư” Nhất Hạnh

NGOẢNH LẠI TRỜI NAM
  (QUỐC HẬN 20.07.1954)

Ngoảnh lại trời Nam thấy mà đau!
Toàn quan thái thú, Nước về đâu?
Ðau Thương Hiệp Ðịnh chia Nam Bắc
“Thống Nhất” lại là cảnh bể dâu?
Lạc Việt, nay thành Dân Mất Ðất
Bởi vì Ðại Hán đã vần xoay
Biến dân bản xứ thành nô lệ
Chẳng phải Tần, Mao, ai nữa đây???

20.07.2008 (Thi tập Cõi Lòng)

HÀNG  ƯỚC

Thật nhục nhã cho giống dòng bất khuất
Từ ngàn xưa Việt-tộc vốn hiên ngang.
Ðã bao phen lừng lẫy, đuổi xâm lăng
Muôn, muôn trận oai hùng vang chiến sử.

Trong sử Việt những anh hùng bất tử
Vẫn muôn đời, con cháu lấy làm gương
Có những thời vận nước lắm nhiễu nhương
Sinh ra kẻ thật đốn hèn, vô loại.

Hỡi bạn trẻ hãy cùng nhau điểm lại
Nhìn quê hương, nửa thế kỷ tang thương
Giữa Bắc, Nam phải chịu cảnh tai ương
Ðể hai khối Tàu, Nga làm thí điểm

Do ba nước liệt cường (*) chung lấp liếm
Ðể giặc Hồ cứ hống hách, vô liêm
Tưởng Hán gian có tình nghĩa “anh em”
Khi lâm trận thấy “bác Hồ” (*)đã chuốc.

Hỡi bạn trẻ nhớ ngàn năm Bắc thuộc?
Bao lớp người quyết tử, cứu giang sơn
Mới thoát ra cảnh: "cá chậu chim lồng"
Mà kiến thức “bác Hồ” chưa biết nhục.

Ðâu “đôc lập, tư do và hạnh phúc”
Ðể bây giờ con cháu lãnh thương đau
Và anh em “Bộ Ðội” đôi “dép râu”
Mang súng nạp, bằng chân: không dày, dép 

Trận Núi Ðất (*),  hơn ba ngàn (3700) xác chết
Giặc Hán kia đem đốt để làm phân?
Bọn đầu trâu Bắc-bộ-phủ ngu đần
Dâng đất, biển Hán còn chưa thỏa dạ.

Bắt Việt Cộng phải cúi đầu vâng, dạ.
Biến người dân thành nô lệ, lập công (*)
Năm  hai ngàn (2000) chúng đã bán non sông
Bằng “Hàng Ước” (*) nơi vòm trời Núi Ðất.

30.05.08 (Thi tập Cõi Lòng)

(*) Tàu, Nga Mỹ
(*) Chỉ Hồ Chí Minh
(*)  Trung Cộng đã gửi một phái đoàn cố vấn sang giúp Bộ Tư Lệnh  Việt Minh. Ðại tướng Trung Cộng Trần Canh, một trong Ngũ hỗ tướng  của Mao Trạch Ðông (Trần Nghị, Lâm Bưu, Bành Hoài Ðức, Diệp Kiếm Anh, Trần Canh)  đã có mặt tại Việt Nam...(theo Nghiêm Kế Tổ -  Việt Nam Khói Lửa trang 339)
(*) Tàu gọi là núi Lão Sơn
(*) Rước đuốc vào ngày 29.04.08  để người Tàu hiên ngang phất cờ đỏ trên Hòn  Ngọc Viễn Ðông (Sài Gòn). Vậy khác nào đã đầu hàng Tàu Cộng.
(*) Cuộc chiến Việt Trung năm 1979 đã đi vào lịch sử, nhưng có một cuộc chiến Việt Trung lần thứ II, với các trận đánh cấp sư đoàn, ngày 12.07.84 Tầu Cộng bắn hạ 3700 bội đội Việt Cộng bỏ xác tại núi Lão Sơn, tới nay Hà Nội vẫn giấu nhẹm, người dân V.N. không hề biết, nhưng vì sao Bộ Quốc Phòng Bắc Kinh vừa cho công bố tin tức tài liệu hình ảnh trên mạng lưới thông tin toàn cầu ?
-Có phải vì cuộc bại trận đó Hà Nội đã phải ký một hàng ước, và từ đó hành xử như một nước chu hầu? (theo Khởi Hành Nguyệt San Văn Hóa Văn Học Nghệ Thuật số 139 – tháng 05.2008)
  

20.07.1954

Hai Mươi Tháng Bảy Năm Tư
Ai chia Nam, Bắc, cơ đồ cắt hai?
Dòng sông Thạch Hãn đong đầy
Trở thành sông máu ngập đầy hàm oan.
Niềm đau: sinh Bắc tử Nam
Nào ai thấu nỗi giang san điêu tàn?

20.07.08 (Thi tập Cõi Lòng)

THÓI ĐỜI

Chẳng ai hiểu được chân hay giả
Cứ chạy theo thời để Nước đau
Dân mãi trầm luân do phỉ Cộng
Triệu hồn Lê Mác, dựng cờ Mao
Đã non thế kỷ còn chưa dứt
Xưa chúng chia Miền, nay xén biên
Lãnh hải đem dâng sau Hiệp Định
Hồn Thiêng Sông Núi cũng không yên.

18.03.09

GIỮ CÕI NAM

Trời hận, đất sầu, dân có nỡ
Nhìn non sông Việt, Hán xâm lăng
Biết bao xương máu xây thành quách
Xuyên suốt ngàn năm giữ cõi Nam.
Con cháu hùng anh đâu hèn nhát
Như loài Hồ phỉ cúi đầu dâng
Để cho Hán Cộng theo đà lấn
Nước Việt mai nầy sẽ tóc tang.

21.03.08 (Thi tập Cõi Lòng)

TỘI PHẢN QUỐC

Tội Phản Quốc: các ngươi đi bán Nước,
Dạy cháu, con rước cờ máu quân thù
Nhân danh ngày "Thế Vận Hội" thể thao
Thật ngu xuẩn... cả một bầy lang sói.

Các ngươi học toàn những tuồng phản bội
Cả "Ngàn Năm Lịch Sử " dấu nơi đâu?
Để lớp sau chẳng hiểu biết chi Tàu
Cứ như thế! Nay trờ thành khoác lác.

Các ngươi dạy cháu, con toàn nói phét (*)
Nhân tính không còn, thành đám vô lương
Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Trường
Còn không biết đứng lên mà đòi lại?

Các ngươi sống, đâu khác nào vô loại
Dưới mặt trời còn che dấu…, ba hoa
Việt-tộc ta,  Nguyễn Trãi khắc trên bia:
"Tuy mạnh yếu từng khi có khác
Nhưng hào kiệt chẳng thuở nào không
".

30.04.08 (Thi tập Cõi Lòng) 

BA MƯƠI  BA NĂM

Ba mươi ba năm thời Quốc Nạn
Thực dân #1 Việt Cộng bán non sông
Nhân danh “chủ nghĩa đại đồng”
Dâng cho Hán Cộng, rồi đồng hóa thôi.
Bọn bành trướng chờ thời chiếm đoạt
Toàn dân ta khó thoát tai ương
Thương cho đất nước HùngVương
Ngàn năm bất khuất, một phương hùng cường.

13.04.08 (Thi Tập Cõi Lòng)

#1  Đành rằng, thực dân là từ một nước khác sang lân bang chiếm cứ để khai thác và bóc lột người dân bản xứ. Còn đối với Việt gian Cộng Sản là một bộ  phận của ngoại tộc trên cả hai mặt l‎ý thuyết và hành động.
-Mặt lý‎ thuyết: rước chủ thuyết của Mác, làm l‎ý thuyết chỉ đạo. Lý thuyết chỉ đạo là mầm mống của mục đích sẽ làm bại hoại cả nền luân l‎‎ý  và đạo đức của Việt-tộc từ ngàn xưa.
-Hành động: Bọn chúng (Việt gian Bắc bộ phủ)  thực hiện chính sách ngu dân dưới mọi hình thức cho Tàu xâm lăng không cần vũ lực.

RƯỚC ĐUỐC

Rước bao nhiêu thứ …hại dân.
Đến nay rước đuốc để dâng sơn hà.
Từ Sài Gòn, Hoàng, Trường Sa,
Cúi đầu vâng lệnh cáo già...triều Mao.
Tên lưu manh Hồ Cẩm Đào,
Sai đàn khủng bố lẫn vào làm dân.
Ngày Hăm Chín Tháng Tư Đen,
Thanh Sinh Đất Việt một phen xuống đường.
Hỡi toàn dân! Một lòng son,
Cả trong, ngoài Nước hãy tròn khí thiêng.

13.04.08 (Thi tập Cõi Lòng)

NAM QUAN

Ôi thương thay mảnh cơ đồ
Chỉ còn danh nghĩa, đất hờ ấy thôi.
Nam Quan nay đã mất rồi
Chúng đem dâng hiến để “ngồi” cho yên
Nước Nam từ thuở khai thiên
Chưa bao giờ đến ngả nghiêng thế này
Con dân chịu cảnh đọa đày
Một bầy lang sói ra oai trị vì

30.04.2001 (Thi tập Cõi Lòng)

 

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc-Lâm Yên-Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site