Trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 cùng những Chứng Liệu Lịch Sử
Vĩnh Liêm
1, 2
“Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam
và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”
“Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, không chỉ là nỗi đau riêng cho
nửa nước (VNCH), mà là nỗi đau chung của toàn nước (dân tộc) Việt Nam.”
Vào đầu tháng 12 năm 2007, tên Hoàng Sa và Trường Sa bỗng dưng lại được báo chí và mạng lưới tin học ở hải ngoại đồng loạt chú ý và loan tải vì được tin Trung Cộng thành lập thành phố hành chánh Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý ba quần đảo nằm ở Nam Hải, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngay sau đó, tại Việt Nam, các sinh viên, thanh niên và văn nghệ sĩ đồng loạt tổ chức các cuộc biểu tình (ngày 9 và 16-12-07) trước Tòa Ðại Sứ TC ở Hà Nội và Lãnh Sự Quán TC ở Sàgòn để phản đối hành động chiếm đất của Trung Cộng. Trong khi đó, tập đoàn lãnh đạo CSVN ở Hà Nội đều im thin thít một cách khó hiểu.
Bài viết này nhằm ghi lại một số dữ kiện lịch sử có liên quan tới quần đảo Hoàng Sa; đồng thời phơi bày mưu đồ chiếm đất của Trung Cộng, cùng dã tâm bán nước của tập đoàn lãnh đạo CSVN.
Mưu đồ và tham vọng của Trung Cộng
Ðế quốc Trung Hoa từ ngàn xưa cho tới nay (đế quốc Trung Cộng) vẫn chỉ là một: tham vọng bành trướng lãnh thổ (xâm lược) hầu thống trị toàn thế giới. Trung Hoa đã liên tục theo đuổi giấc mộng xâm lược từ mấy ngàn năm thì nay (19-1-1974) đã bị thế giới vạch trần bộ mặt tham tàn khi trắng trợn xâm lăng lãnh thổ nước ta trên quần đảo Hoàng Sa. Ðây không phải là lần đầu tiên đế quốc Trung Hoa xâm lăng lãnh thổ Việt Nam, mà đế quốc này đã từng làm trong các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, và Tây Sơn.
Qua trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, chúng ta thắc mắc tự hỏi: Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa nhằm mục đích gì? Có 4 giả thuyết: (1) bành trướng lãnh thổ; (2) có mỏ dầu tại Hoàng Sa; (3) thực hiện giấc mộng “Nam tiến”; (4) kiểm soát đường chiến lược trên Nam Hải (thủy trình quốc tế). Gom cả 4 giả thuyết này lại làm một thì mới giải thích trọn vẹn tham vọng bành trướng và xâm lăng của Trung Cộng.
Trận hải chiến Hoàng Sa
1. Diễn tiến trận thư hùng hải chiến lịch sử - Ngày 19-01-1974, báo chí, hệ thống truyền thanh và truyền hình VNCH đồng loạt tường thuật về trận hải chiến lịch sử tại quần đảo Hoàng Sa giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng. Trận thử lửa đầy gian nguy này nhằm chống lại đế quốc Trung Cộng xâm lăng phần lãnh thổ thân yêu của Việt Nam, nhưng chỉ có các chiến sĩ Hải Quân VNCH hào hùng bất khuất lâm trận; trong khi đó, ngụy quyền Hà Nội và Hải Quân Bắc Việt đều lặng im thin thít một cách hèn nhát.
Ngày 17-01-1974, 15 chiến sĩ Hải Quân VNCH thuộc Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt (HQ.16) cùng các toán Người Nhái và Biệt Hải đã đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa vì được tin một số quân Trung Cộng lén đóng trên đó. Các chiến sĩ Hải Quân VNCH cắm hết cờ trên đảo và chờ lệnh. Lúc đó, phản lực cơ của TC gầm thét trên trời cao, và tàu của TC xuất hiện ở ngoài biển khơi.
Ngày 19-01-1974, trận thư hùng hải chiến bắt đầu. Khoảng 10 giờ sáng, các chiến hạm của TC bắt đầu vây các chiếm hạm của Hải Quân VNCH. Cùng lúc đó, tàu TC đổ hàng chục Ðại Ðội lên đảo và giao tranh với quân trú đóng phòng thủ của ta. Ðến khoảng 10 giờ 25 phút, tàu Hải Quân ta được lệnh nã hải pháo vào tàu của TC. Chỉ trong vòng 5 phút đầu, Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10) đã bắn trúng hầm máy của chiến hạm Trung Cộng mang số 396 nên tàu bừng bừng bốc cháy. Tiếp theo đó, hàng loạt đạn hải pháo khác của HQ.16, HQ.4 và HQ.5 đã bắn trúng tàu địch mang số 271, đài radar bị gãy, mất tay lái, quay vòng vòng rồi lủi vào bãi san hô để tự hủy. Các thủy thủ của tàu này phải nhảy xuống biển để đào thoát. Thêm một chiến hạm thứ hai mang số 274 bị trúng đạn phát hỏa dữ dội. Rồi chiến hạm thứ tư (số 389) của địch cũng bị chung số phận.
Bị thất bại nặng nề trong màn đầu hải chiến nên quân Trung Cộng lồng lộn lên, lập tức tăng cường thêm nhiều chiến hạm khác để gỡ gạc. Hai chiến hạm địch mang số 281 và 282 dồn hết hỏa lực vào HQ.10 để trả thù. Chẳng may, HQ.10 bị trúng đạn nơi phòng máy chánh nên tàu bị nghiêng sang hữu hạm. Hạm phó (HQ Ðại Úy Nguyễn Thành Trí) bị thương nặng, một số chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng Hạm Trưởng (HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà) và thủy thủ đoàn còn lại không hề nao núng. Vừa tự cứu thương, cứu hỏa, vừa dồn hỏa lực chống trả 2 chiến hạm địch (281, 282). Gần tới màn kết thúc, một trái phá của địch bắn trúng đài chỉ huy HQ.10. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và HSI CK Ðinh Hoàng Mai bị thương nặng, chiến hạm bị liệt máy và nghiêng tới mức nguy hiểm nên Hạm Trưởng Thà ra lệnh cho nhân viên đào thoát trên 4 chiếc bè cứu cấp. Hạm Phó Trí xin ở lại nhưng không được Hạm Trưởng Thà chấp thuận vì Hạm Phó phải đi với nhân viên. Chỉ có HSI Mai được ở lại vì HSI Mai tha thiết muốn được noi gương Hạm Trưởng chết theo chiến hạm Nhựt Tảo. Vì Hạm Phó Trí bị thương khá nặng nên ông đã kiệt sức trên bè, đành phải thủy táng. Hai mươi hai thủy thủ còn lại đã được thương thuyền Hòa Lan Skopionella cứu vớt 4 ngày sau đó.
Trận hải chiến kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Ngoài một chiến hạm địch đã chìm sâu trong lòng biển lạnh, còn ba chiếc khác đang ngùn ngụt bốc cháy phải ủi bãi và bị phá hủy sau đó.
2. Thành phần tham chiến
Về phía VNCH, lực lượng tàu chiến Hải Quân tham chiến gồm có: Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ.4), Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ.16), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ.5), và Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10). Hỏa lực của ta gồm có: đại bác 20 ly, 40 ly, 57 ly, 76 ly và 127 ly.
Về phía TC, lực lượng tàu chiến gồm có: Ngoài bốn chiếc tàu ngụy trang tàu đánh cá có trang bị vũ khí và một tàu đổ quân, còn có các chiến hạm trang bị hỏa lực hùng hậu, có hỏa tiễn và đại bác từ 100 ly đến 130 ly. Sáu chiến hạm sơn màu cứt ngựa mang số 271, 274, 281, 282, 389, 396. (Ghi Chú: Sau này tác giả mới được biết 271, 274, 281 và 282 là Hộ tống hạm Kronstadt; 389 và 396 là Trục lôi hạm; còn 4 tàu ngụy trang tàu đánh cá là Phi tiễn đỉnh (Komar 133, 137, 139, 145).
Tổng kết tổn thất đôi bên
1. Hải Quân Trung Cộng
a) Tổn thất chiến cụ: Kronstadt 274 bị chìm với toàn bộ sĩ quan tham mưu; Kronstadt 271 bị hư hại nặng phải ủi bãi, sau đó bị phá hủy, hạm trưởng tử thương; Trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng phải ủi bãi và sau đó bị phá hủy; 4 ngư thuyền (tức Phi tiễn đỉnh Komar 133, 137, 139, 145) chỡ quân bị chìm, không rõ thiệt hại về nhân mạng.
b) Tổn thất nhân mạng: 24 sĩ quan tử thương (1 Ðô Ðốc + 7 Ðại Tá + 7 Trung Tá + 2 Thiếu Tá + 7 cấp Úy) và hơn 100 HSQ và Ðoàn viên tử thương. Ðó là chưa kể số SQ, HSQ, ÐV bị thương nặng nhẹ.
2. Hải Quân VNCH:
a) Tổn thất chiến cụ: HQ.10 bị chìm. HQ.4, HQ.5 và HQ.16 bị hư hại nhẹ.
b) Tổn thất nhân mạng: 32 SQ, HSQ và Ðoàn viên tử thương (trong đó có Th/Tá Thà và Ð/Úy Trí, Hạm Trưởng và Hạm Phó HQ.10) + 26 mất tích.
Hoàng Sa và Chủ quyền Việt Nam
1. Vị trí và địa thế - Quần đảo Hoàng Sa (Paracels hay Paracel Islands) còn được gọï là Tây Sa. Hoàng Sa, là bãi cát vàng, do Vua Gia Long đặt.
Theo tài liệu của Hải Quân VNCH, Hoàng Sa là một dãy đảo nhỏ, gồm khoảng 130 đảo, nằm giữa kinh tuyến 111º - 113º Ð và vĩ tuyến 15º45 - 17 ۫ º05 B, cách Ðà Nẵng khoảng 170-200 hải lý (300-360 cây số về hướng ÐÐB), cách Sàigòn và Hải Phòng khoảng 400-500 hải lý (720-900 cây số). Diện tích chung quanh quần đảo Hoàng Sa độ 10-11 cây số vuông. Mùa mưa từ tháng 6 tới tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 27 độ C. Hoàng Sa là một vị trí chiến lược, kiểm soát mọi sự lưu thông trong vùng biển Nam Hải. Ðài khí tượng của VNCH đặt tại đảo Hoàng Sa (Pattle). Việc trấn giữ đảo gồm 2 đại đội TQLC và lực lượng ÐPQ.
Quần đảo Hoàng Sa gồm có 2 nhóm; khoảng cách giữa hai nhóm này khoảng 40 hải lý (75 cây số):
a. Nhóm Nguyệt Thiềm (Group Croissant) - Nằm ở phía Tây của quần đảo Hoàng Sa và gồm những đảo chính: Ðảo Hoàng Sa (Pattle), Ðảo Cam Tuyền (Robert), Ðảo Vĩnh Lạc (Money), Ðảo Quang Hòa (Duncan), Ðảo Duy Mộng (Drumond), Ðảo Tri Tôn (Triton), Ðảo Bạch Gui (Passu Keath), và Cồn quan sát (Banc des observations).
b. Nhóm Tuyên Ðức (Group Amphitrite) - Gồm các đảo quan trọng: Ðảo Tây (Banc Ouest), Ðảo Trung (I. Milieu), Ðảo Cù Mộc (I. à Larbre), Ðảo Bắc (I. Nord), Ðảo Nam (I. Sud), Ðảo Hòn Ðá (I. Rocheuse), Ðảo Phú Lâm (I. Boisée), và Ðảo Linh Côn (I. Lincoln).
2. Nguồn Lợi Hoàng Sa – Quần đảo Hoàng Sa có 2 nguồn lợi lớn là hải sản và khoáng sản.
a. Hải sản - Ðủ loại: cá hồng, cá nục, cá đuối, cá mập, ốc tai tượng, trạch biển, rong biển, hải âu…
b. Khoáng sản - Khoáng sản của quần đảo Hoàng Sa là “phốt phát” (phosphate). Số lượng phốt phát do các đảo cung cấp: Hoàng sa: từ 562 đến 960 ngàn tấn, Vĩnh Lạc: từ 787 đến 1 triệu 200 ngàn tấn, Cam Tuyền: từ 675 ngàn tấn đến 1 triệu 400 ngàn tấn, Duy Mộng: từ 675 ngàn tấn trở lên (theo tài liệu của Tổng Nha Khoáng Chất và Công Kỹ Nghệ VNCH năm 1973).
1, 2