lịch sử việt nam
Là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa,
Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu bảo vệ cho sự sống còn của Tổ Quốc, của gia đình và của chính bản thân tôi.
Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành các mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền chia rẽ của giặc cộng.
Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.
Điều 4: Tôi luôn tâm niệm hành động làm mất lòng dân là xua dân về phía giặc cộng, là tự sát.
Điều 5: Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù.
Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi sẽ được đền bù bằng sự cảm mến và biết ơn của Đồng Bào.
---------------
Tháng Tư, thật chết với quê hương
Phan Nhật Nam
Hóa ra cảm giác nhạt nhạt nơi miệng, buồn buồn đè nặng, đau đau ở trũng ngực làm đứa nhỏ có thói quen luôn rờ tay lên ngực áo như muốn gỡ đi một khối nặng vô hình dính sâu đâu trong người, mà sau nầy khi khôn lớn, nó mới biết đó là vị trí gần quả tim, chặn ngang đường thở. Tâm cảnh nầy vốn có từ rất lâu - Cảm giác thời thơ ấu còn nhỏ dại nó chưa biết gọi nên tên.
Hoặc, buổi thanh xuân, đang ở tuổi hai-mươi nơi trường Ðà Lạt, đầu những năm 60. Hằng đêm, khi bóng tối chìm rét lạnh phủ kín dầy khu rừng phía sân bắn, đối diện Vũ Ðình Trường, anh khắc khoải nhìn ra hướng vườn Bích Câu nơi xa, đường vòng Hồ Xuân Hương chập chờn giàn đèn màu tím đẫm lẫn trong mù sương. Anh lần tìm thấy, hiểu ra: Sẽ chỉ còn một mình với Nỗi Buồn, về một điều Không Thật. Nhưng quả tình anh cũng chưa biết từ đâu? Là gì? Tại sao?
Sau những năm kể trên, ra đơn vị, lần chịu phạt quân kỷ đầu tiên tháng 8, năm 1964 ở Bộ Tổng Tham Mưu, đường Võ Tánh, Gia Ðịnh. Phòng giam mờ đục, ngột ngạt, suốt ngày nằm dán xuống chiếc giường sắt lót nệm rơm cũ ẩm, khô khan, anh nghe sự sống bên ngoài qua tiếng mưa chợt ào đến, vụt tắt dưới mái hàng hiên - Mưa Miền Nam - Mưa mùa Hè thất thanh, vùng vẫy. Và anh thấy trước sẽ có một mất mát rất lớn ắt phải xẩy ra - Cái Ðau của Sự Chết - Hiện thực với khoảng tối của phòng giam tầng tầng chụp xuống, anh há miệng ra như đang bị bóp cổ, mắt ráo hoảnh trừng trừng nhìn lên đỉnh chiếc mùng nhà binh - tấm vải trắng nhờ nhờ như như nắp quan tài.. bay lên cao.. cao.. cao nơi xa dật dờ như một giải khăn tang..
Nhưng không hẳn chỉ là thế, sâu xa hơn những ám ảnh tuổi thơ, phiền bực tuổi trẻ còn có điều gì khác, lớn lao, kinh hoàng, khốc liệt hơn.. Cảm giác gần kề, rờn rợn, dẫu tính đến nay (tháng Tư, 1975) đã gần hết một thập niên. Năm 1965, sau trận chiến bùng nổ ngày 11 tháng 6, với mưa Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Ðội Gò Vấp. Mưa không đủ lớn, không dài lâu để cho người có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 Bộ Binh; của Biệt Ðộng Quân, Tiểu đoàn 52; và đơn vị đầu đời, thiết thân, thương mến, Tiểu Ðoàn 7 Nhẩy Dù với những người lính anh quen mặt từ buổi trưa cuối năm 1963 mang chiếc xắc marin nhà binh bước qua cổng doanh trại, vào trình diện tiểu đoàn trưởng.. Những người lính với sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van, ghìm lại hơi thở dài nặng nhọc... Nay tất cả những người gần gũi thân mến nầy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao tanh tưởi; khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu, đất đỏ, nhầy nhụa thêm bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi chỗ đụng trận, một chốn gọi là xã Ðồng Xoài, quận Ðôn Luân, tỉnh Bình Dương, xa Sài Gòn khoảng năm -mươi cây số đường chim bay.
Rồi từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ Âm Hồn, lối đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa Ðông Ba. Khoảng đường u thẫm chập dầy bóng đen đêm Xuân 1968, với tình thế nguy biến tang thương hơn qua hoạt cảnh người lính xao xác chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng đội.. Anh đi ngang qua căn nhà có xác người đàn bà chết trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung tóe, hẳn đang khấn lạy, cầu xin, nhưng chỉ còn thân người, bởi chiếc đầu đã bị cắt lìa, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ còn những tảng thịt rời rã.. Nhận biết đấy là người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế. Nhưng, như một an ủi khốn cùng, ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị Bình, Thạch Lộc, Hốc Môn, Gia Ðịnh trong dịp chiến loạn Mậu Thân 1968, người ta vẫn còn khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng.. qua áo quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut, hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc. Nơi cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước, Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị Bình, Gò Vấp.. Cả một vùng hoa mai tàn tạ trong ánh nắng rung rinh mùi tử khí.
Nhưng đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng vụt cường độ; bất hạnh, tang thương nhân lên bội phần cho dù trí tưởng tượng về tình cảnh khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng, chuẩn bị chịu đựng. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân tạo. Lửa được cháy lên do từ áo quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và tế bào thịt da của người tẩm vào lưỡi lửa của xe cộ, xăng nhớt, biến thái nên ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Trên quãng đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị mà báo chí Miền Nam đặt nên tên đau thương Ðại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không còn dạng thây ma để được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương cốt rời rã, lăn lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám, nơi ổ súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ mối đùn lên gây gây tanh mùi máu.
Hoặc ở An Lộc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 nơi Bệnh viện Tiểu Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau thương tương tự. Vì pháo binh cộng sản yểm trợ cho các Công trường (sư đoàn) 5, 7 bộ binh đã học được một kinh nghiệm hữu dụng: “Ban ngày pháo kích xuống nhiều điểm bên trong thị xã để dân chúng tin rằng, “bộ đội giải phóng” không pháo kích vô chỗ bệnh viện!” Nên Trường Trung Học Cộng Ðồng, Bệnh Viện Tiểu Khu.. nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu, giữa những người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên - cho dẫu bình yên được chết- biến thành những điểm pháo tập trung với tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống chỉ trong một đêm 10 tháng Tư xé toang đám xác người (người sống lẫn kẻ chết), ném tung lên dăm lần, ba lượt (hoặc rất nhiều lần) để thân thể con người chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mãnh thép.. Trận Ðồng Xoài năm xưa trên vùng đất nầy đã trở nên là cảnh tượng nhỏ nhoi, bởi ở Ðồng Xoài năm 1965 chỉ với những người lính tác chiến gục ngã do đạn súng tay. Thây xác họ may mắn còn nguyên vẹn hình hài.
Với những tình cảnh sống-chết đan kín, xen kẽ cùng nhau trong suốt chặng đường dài từ ngày ra đơn vị, nên đã rất nhiều lần, bất chợt anh nghe ra tiếng gọi oán hờn từ Nghĩa Trang Quân Ðội.. tự trong thân âm động thảm thiết vang dội cơn gầm ghìm kinh hoàng của lần “phải sống đau đớn khó khăn hơn được ngã chết.”
Tất Cả Hiện Ðủ Trong Buổi Sáng Hôm Nay
Sự Chết bắt đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4, khi chuỗi bom dưới cánh những chiếc A37 do viên phi công phản trắc Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi nhanh xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Ðạn phòng không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngỏ tháo chạy của Sài Gòn đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp hối, chìm dần trong lửa hỏa ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ Ðồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Ðịnh bắt đầu đỗ xuống không ngắt nhịp.. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa tiễn 122 ly chính xác rơi xuống.. Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ, hấp hối trong khói đen, lửa ngọn.. Cuộc hành hình kéo dài từ 4 giờ sáng ngày 29 tiếp tục đến rạng đông. Ở căn cứ DAO (Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ), ba ngàn người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn lên trời, giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống.. đống hành lý khổng lồ gồm quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng Ðạo của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ.. tất cả cùng trộn lẫn với thịt da thân thể người thành một thứ pháo bông tan tác bay tung tóe, hiện thực cảnh địa ngục vô vàn của Dante nơi trần thế.
Những viên tướng đã ra đi, những sĩ quan cấp tá cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn vị, nhưng, Trung Úy Phi Công Nguyễn Văn Thành còn lại. Thành (có biệt hiệu “Thành mọi” bởi nước da ngâm đen quá độ) ra chỗ đậu tàu, anh nỗ máy chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ, cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên cao, thấy rõ những vị trí pháo của binh đội cộng sản.. Thành nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh.. Lửa nháng lên dưới thân tàu, toán phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình tĩnh, tài giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại phi đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc giội bom chiều hôm, và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau thương tang tóc nầy. Mặc, Thành tự tay nạp đạn vào tàu, trở lại bầu trời trên phi cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngỏ của Miền Nam. Anh nhìn xuống những vị trí pháo cộng sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc gia chỉ còn được lần cứu viện bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành chúc mũi tàu, bấm chặt hệ thống kích hỏa bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một mình anh.. Phải chỉ một mình anh - Trung úy Nguyễn Văn Thành, “Thành Mọi - Thành Thiếu Sinh Quân”. Thành hạ thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa! Lửa! Lửa cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.. Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh.. Các múi, giây dù vướng vít rối rắm. Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt.. Người phi công chìm trong lửa, gục ngất giữa không gian..
Sáng 30 tháng 4, năm 1975. Anh lục túi lấy hết giấy tờ: Chứng Chỉ Tại Ngũ, Thẻ Lãnh Lương, Thẻ Báo Chí, Chứng Minh Thư mang Danh số 41 Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương... ném tất cả xuống miệng cống trước trước nhà sách Khai Trí, đường Lê Lợi.. Coi như mình đã chết... Hình như anh vừa nói ra lời. Có cảm giác thanh thản của người vừa cất xong gánh nặng quá lớn. Vất bỏ cùng lần với đời sống chính mình. Tay giữ chặt hai chiếc máy ảnh trước ngực.. Ít ra mình còn có vật dụng để thực hiện một công việc, làm một nhiệm vụ. Ðây là những hình ảnh không thể thiếu cho mai sau. Ðể tương lai còn có người biết đến, hiểu ra. Với nhắc nhở, nâng đỡ. ứng phó, giải thích tội nghiệp, thảm hại nầy, anh đi về phía Công Trường Lam Sơn, trước trụ sở Hạ Viện. Chung quanh Sài Gòn vắng hoe. Trời bỗng nhiên trở mưa.. Cơn mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất.
Chiếc xe Molotova Trung Cộng (sau khi đi tù mới biết đấy là xe Zil) từ hướng đường Trần Hưng Ðạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành, những người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện, đám thiếu nữ nhẩy xuống, một anh đội mũ tai bèo, chắc là người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ trỏ, ban lệnh, kéo từng người vào vị trí “chiến đấu”... các đồng chí, các đồng chí... bố trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng, the thé. Những thiếu nữ ngồi bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo quần mới, áo mầu xanh dương, quần đen, vải nội hóa còn nguyên dấu hồ, dây đạn đeo chéo qua thân, miết xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Ðạn cũng mới tinh, đỏ au. Cơ thể cô gái phụ xạ thủ như muốn nức toang do chiếc áo quá chật bó thắt vào khối thịt căng phồng. Ðôi mắt nhỏ nhắm hờ, một lằn chỉ khép kín để khỏi nhìn thấy ống kính, cô ta ngồi im, cánh mũi phập phồng, mồi hôi ứa đẫm trên lớp da mặt đỏ nâu lốm đốm dấu mụn. Từ góc nhà hàng Givral, Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ, đám đông dần tập trung để xem mặt “bộ đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước rạp Rex. Lính nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo nhác. Từ Hạ Viện, anh đi băng qua hành lang Eden.
Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay động, phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạt kéo lê hỗn độn, vội vàng trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi thề, giành giựt. Ðám đông chạy về phía Building Brink, khu Ðồn Ðất, nhà thương Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ... Có người tự tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính, không biết, chỉ thấy mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoải, chỗ tượng Thủy quân lục chiến.. Lời trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng thở dồn dập, bước chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới những kho hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng quí giá, thức ăn đắt tiền. Anh cũng nhập vào đám đông xô đẩy đó trong giờ phút vỡ toang mối nối thời - không với những động tác, việc làm bất định, bất ngờ, vô nghĩa, vô ích. Anh kiểm soát lại số phim đang còn trong máy, trong túi, đi băng qua lối ngang trong thương xá, ra ngõ quán Thanh Vị, quẹo phải, men theo hàng hiên tiệm kem Ðô Chính. Súng nổ.. Súng Aka và những bóng người chạy lúp xúp vào cổng Tòa Ðô Chính. Anh tiếp tục làm “nhiệm vụ”, đưa máy hình lên.. Ðộng tác quen thuộc, thuần thục từ bao năm, anh và các bạn, những phóng viên chiến trường của báo chí miền Nam hằng thực hiện nơi những chốn sự chết, lửa đạn vây bủa. Ðồng một lúc anh chợt nhói đau - Ðây là lần cuối cùng. Ðây là giờ cuối cùng. Hình như một nhân vật trong Doctor Zhivago cũng đã kêu lên như thế. Anh chỉ nhớ loáng thoáng bởi đang có cảm giác người cạn ly rượu hành quyết trước khi bịt mắt, dẫn đi. Anh chạy theo đám lính cộng sản với hai thanh niên cầm cờ đỏ. Thật ra chỉ là một mẫu vải màu đỏ. Loại hàng may áo dài.
Thoáng rất ngắn, anh ngừng lại, liếc về phía khối tượng đài Thủy Quân Lục Chiến, nơi có Người Lính vừa chết. Anh cúi gập người, nôn khan. Buổi Sáng 30 tháng Tư, 1975. Chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Ðộc Lập có tiếng nổ khô nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long.
Anh lên yên, nhấn mạnh bàn đạp, động tác bàn chân quay vòng không chủ đích. Xe đi dọc đường Lê Văn Duyệt, qua Chợ Ðũi, nơi các bạn anh hôm qua (nay đã trở thành xưa cũ) hằng vui vầy, sống động.. Ðịnh rẽ vào Yên Ðỗ về Phú Nhuận, nhưng không hiểu từ đâu thúc giục, anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa dòng âm động dồn dập của Sài Gòn đang hồi tẩm liệm với nhịp chày vồ dộng mạnh xuống trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật có nhiều quan tài của những người vừa chết.. Ðến trước cổng trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Ðoàn 1 Dù, anh hỏi Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 2: “Bây giờ bạn tính sao?” Tròng mắt bạn khô khan ráo hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ. Hạnh nói dứt khoát, dẫu mệt nhọc, rời rã: “Tôi còn đến 500 người lính; tất cả các đại đội trưởng đang đợi lệnh tôi, anh xem tôi có thể làm gì, đi đâu?!” Có một xác con trẻ trần truồng không biết ai vất ra từ bao giờ.. Cô gái áo trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh thây đứa trẻ chết. Cháu chụp tấm hình nầy làm gì?Anh không dám nhìn đến thây đứa trẻ mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường do đám người chạy loạn giẫm lên. Ðể làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết! Giọng cô gái đanh lại, mắt quắt lên sau lớp kính trắng. Anh thoáng kinh hãi vì chứng kiến một điều ghê rợn: “Hóa ra Sự Ác có thể chụp xuống lòng người mau chóng đến thế sao?” Bấy giờ, chỉ mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Có trung đội lính Dù (thật sự chỉ khoảng hơn một tiểu đội) giữ nhiệm vụ an ninh cư xá đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu (Tư lệnh phó Sư đoàn Dù trước 1972). Chuẩn Tướng Hậu đang trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan. Khi biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên... Ð... m... đồ chó đẻ! Anh nói với viên thiếu úy trung đội trưởng: Anh vừa gặp ông Hạnh ngoài cổng tiểu đoàn 1. Ông Hạnh không có ý kiến, bảo anh em ai về nhà nấy. Viên thiếu úy quyết liệt: “Em không đầu hàng, em với trung đội sẽ ra bến tàu..” Thái, Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển.. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Ðường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Ðằng, tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm.. Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nỗ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.
Sau nầy, anh biết thêm, trên con đường anh vừa đi qua, đường Bắc Hải, ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, trong một căn nhà đã diễn nên hoạt cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử cùng vận nước. Thiếu Tá Ðặng Sĩ Vĩnh (em của Bà Hà Thượng Nhân, Trung Tá Phạm Xuân Ninh, niên trưởng của giới báo chí quân đội Miền Nam) Khóa 1 Nam Ðịnh là sĩ quan của ngành tình báo đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường dây quốc ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Ðặng Trần Vinh sĩ quan Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu.. Hai người cùng trao đổi đối thoại sau khi có lệnh đầu hàng.. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ trước. Nếu bố đã quyết như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia đình uống chậm những liều thuốc độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Trung Úy Ðặng Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn bắn tung phần sọ não sau khi đứng chào tấm Ðại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ với lời hô khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau.. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Và ở vùng IV, chị Nguyễn Thị Thàng vợ một Nghĩa Quân Ðồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái lựu đạn cuối cùng. Chị kết thúc đời sống bên cạnh thây của chồng, các con, với những vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử.
Cùng lần với những danh tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Anh đi qua biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội đã được sống sót- Cảm ứng có thật từ ngày 15 tháng 3, 1975 khi anh theo đoàn người di tản dọc tỉnh lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hòa.. Khi đứng trên Ðèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, nhìn đoàn người chạy từ Quảng Trị, Huế vào Ðà Nẵng. Nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ đã chết từ lâu trên tay. Anh đạp xe với màn nước mắt pha máu; trên áo, ở đầu ngón tay, nơi cánh mũi rây rây, nồng gắt mùi máu do khi anh đến gần, cúi xuống chụp hình viên thiếu úy và những người lính nhảy dù tự sát. Mắt người chết nhìn anh trừng trừng khốc liệt. Không hiểu anh đã về đến nhà theo lối nào, lúc mấy giờ, nhưng đây thật là đoạn đường dài nhất, mệt nhọc nhất, gớm ghê nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng trỗng không.
Hậu từ,
Ngày 14 tháng 1, 2002 tại Ðại Học Ngoại Ngữ thuộc hệ thống Ðại Học Ðông Kinh, trong hội thảo tìm hiểu Nguyên nhân và Tác động của Chiến Tranh Việt Nam, anh đã có lời kết luận cho phần nói chuyện của mình... “Người Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến tế - Sepuku (mổ bụng tự sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam chúng tôi không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt cũng có phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con Người. Chúng tôi sử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua cách thế im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng. Sau ngày, 30 tháng 4, đã có hàng loạt những vị tư lệnh quân đội đồng lần tự sát trong im lặng. Nhưng không chỉ những tướng quân chỉ huy những đại đơn vị cấp quân đoàn, sư đoàn, mà ngay cả những viên thiếu, trung úy cùng quyết định với những người lính của mình - Những tập thể trung, tiểu đội nổ tung thân xác sau lời hô vĩnh biệt quê hương. Và không phải riêng đối với những người lính phải buông súng, mà cả gia đình, vợ, con họ cùng lần kết liễu cuộc sống khi tổ quốc lâm tử. Cuối cùng, bi kịch không chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70, 80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt người Nam, hay người Bắc (những người đã sống dài lâu dưới chế độ cộng sản Hà Nội từ 1945, từ 1954) đã phá thân băng biển lớn, rừng rậm của vùng Ðông-Nam Á, với giá máu 600.000 người chết trên đường di tản ra khỏi nước. Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt Nam bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt nên lời: Chết vì Tự Do, để bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người Việt Nam đã, đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê hương khổ nạn, với chính thân xác của mình.”
Anh nói những lời trên không riêng cho hội thảo ở Ðông Kinh mà muốn gởi đến thế giới về Vĩ Ðại Ðau Thương của toàn Dân Tộc Việt.
Xin tất cả hãy lắng nghe.
Viết lại với ngày 30 Tháng Tư, của 29 năm sau, 1975-2004.
Phan Nhật Nam.
Thư-viện bồ-đề online @ Trúc-Lâm Yên-Tử
Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks
Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử