Biên-giới Việt-Trung và sự đối-đầu Trung-Pháp
vào thời-kỳ chinh-phục Bắc-Kỳ
Charles Fourniau
Dịch giả : Trương Nhân Tuấn
(La frontière sino-vietnamienne et le face à face franco-chinois à l’époque de la conquête du Tonkin, Charles Fourniau, trong quyển Les Frontière du Vietnam, Pierre-Bernard Lafont làm chủ- biên, nxb Harmattan, Paris 1989, trang 85-103 – Trương Nhân Tuấn lược dịch)
Những vấn-đề về biên-giới giữa hai nước Việt-Nam và Trung-Hoa, cho đến năm 1874, thì chỉ liênquan đến hai nước nầy.
Nhưng bắt đầu từ hậu-bán thế-kỷ thứ XIX, những vấn-đề nầy được lẫn-lộn chung với các biến-động kinh-hoàng xãy ra ở Viễn-Ðông, đem lại từ sự đụng-chạm với các đế-quốc Tây-Phương. Việc đụng chạm nầy tạo ra, trước hết một sự khủng-hoảng tận gốc-rễ lan tràn đến toàn vùng phía Nam sông Dương-Tử của Trung-Hoa trong các năm 60 và 70, thứ đến là sự thống-trị của Pháp ở An-Nam, và cuối cùng là sự suy-thoái từng bước của quân-đội Trung-Hoa.
Các yếu-tố địa-phương cũng bị thay đổi lớn-lao: Sự hiện-diện những đảng cướp Tàu tại Bắc-Kỳ cũng như sự việc đế-quốc Pháp thay mặt An-Nam về quân-sự và ngoại-giao đối với Trung-Hoa. Mặc khác, đường biên-giới Việt-Trung trở thành một trong những tuyến-đầu cho sự đối-chọi giữa hai thế-giới hoàn-toàn xa-lạ nhau. Nó là mối quan-tâm của các nước trong vùng cũng như những Ðế-Quốc lo-ngại cho việc cân-bằng thế-lực ở địa-phương và thế-giới.
Vấn-đề biên-giới, cũng như những vấn-đề khác của Ðông-Nam Châu-Á, đã đi qua từ một thời-kỳ
lịch-sử nầy sang một thời-kỳ lịch-sử khác.
Nhưng việc đáng ghi-nhận, mặc dầu với sự chấn-động mãnh-liệt đặc-biệt của thời-kỳ nầy, đường biên-giới đã được thiết-lập từ thời xa-xưa giữa Việt-Nam và Trung-Hoa vẫn được giữ khá toàn-vẹn,
ngoại-trừ một vài thay đổi nhỏ. Biên-giới Việt-Trung vì thế có được tính chính-xác khoa-học cũng như tính bó-buộc của đường biên-giới hiện-đại.
Như vậy rõ-ràng là sự xác-định đường biên-giới Việt-Trung dưới thời thuộc-địa đã không tạo ra một
“biên-giới thuộc-địa”, có nghĩa là một đường biên-giới bất-kỳ được áp-đặt do sự can-thiệp từ bên ngoài, mà nó chỉ phản-ảnh từ một thực-tế lịch-sử đã bắt rễ sâu-xa.
Trong 10 năm, từ 1885 cho đến 1895, hai đối-thủ (Pháp và Thanh-triều), mỗi khi có dịp thuận-tiện
là thử tìm cách thay-đổi biên-giới để dành phần lợi về mình, lúc dựa vào thực-địa, lúc dựa vàotương-quan lực-lượng. Cuối cùng hai bên thỏa-thuận trên căn-bản “giữ nguyên-trạng”, chỉ có một vài thay-đổi rất giới-hạn về lãnh-thổ.
Từ hiệp-ước Philastre (15 mars 1874), tình-hình không mấy thay-đổi, đến hiệp-ước Patenôtre và
hiệp-ước Thiên-Tân vấn-đề đổi mới hoàn-toàn.
Hiệp-ước Patenôtre tháng 6 năm 1884 đã đặt An-Nam dưới sự bảo-hộ của Pháp (trước đó Nam-Kỳ
“Cochinchine” đã bị nhượng cho Pháp); toàn-bộ nước Việt vì vậy chịu sự bảo-hộ của Pháp.
Tháng 6 năm 1885, dựa lên một công-ước đã ký trước đó một năm, công-ước Thiên-Tân được ký kết nhằm kết-thúc chiến-tranh Pháp-Hoa và qui-định cho các đạo-binh của Tàu ở Bắc-Kỳ phải lui binh (việc nầy đã được nhanh-chóng thực-hiện). Công-ước nầy cũng là bằng-chứng cho sự công nhận của Trung-Hoa về sự hiện-diện của Pháp tại Việt-Nam, có nghĩa là mối liên-hệ thượng-quốc –
chư-hầu giữa Trung-Hoa và Việt-Nam từ thế-kỷ thứ X được chấm-dứt vĩnh-viễn.
Như vậy là nước Pháp thay mặt quốc-gia Việt-Nam về mặt luật-pháp cũng như hành-động để cán đán những công-việc liên-quan đến biên-giới của các vùng Quảng-Ðông, Quảng-Tây và Vân-Nam.
Bởi vì hiệp-ước Patenôtre ghi rằng nước Pháp phải “bảo-đảm từ nay sự toàn-vẹn lãnh-thổ của vua nước An-Nam, bảo-vệ nước nầy chống lại những gây-hấn từ bên ngoài và phản-loạn trong nước. Vì
thế chính-quyền Pháp có thể cho quân-đội của mình đóng trên những phần đất An-Nam và Bắc-Kỳ (Tonkin) tại các địa-điểm xét thấy cần-thiết nhằm thực-hiện quyền bảo-hộ” (điều 15).
Từ đó nước Pháp phải phòng-vệ ở vùng biên-giới với Trung-Hoa, việc nầy đặt ra giả-thiết phải bình-định và đóng quân trên vùng thượng-du Bắc-Kỳ. Ðây là một công-việc rất khổ-nhọc, phải cần đến 10 năm nỗ-lực về chính-trị và quân-sự.
Tuy-nhiên, văn-bản của hiệp-ước Thiên-Tân chỉ nói về những vấn-đề tổng-quát. Nó dự-trù thiết-lập
hai công-ước phụ: một là về việc thương-mại giữa Trung-Hoa và Bắc-Kỳ và hai là việc phân-định biên-giới. Ðiều 3 hiệp-ước trên ghi rằng: “Trong một khoảng thời-gian 6 tháng, các ủy-viên của hai bên sẽ ra thực-địa để nhìn-nhận đường biên-giới giữa Trung-Hoa và Bắc-Kỳ. Những người nầy sẽ cắm mốc ở mọi nơi thấy cần-thiết để đường biên-giới được rõ-ràng...”. Nhưng thực-tế thì việc phânđịnh và phân-giới cắm mốc kéo dài trên 10 năm, từ năm 1885 cho đến năm 1895.
Những dữ-kiện của vấn-đề:
Có ba yếu-tố chính đã đóng những vai trò quyết-định trong diễn-tiến của công-trình xác-định đường biên-giới: 1. điều-kiện địa-hình và địa-vật ở các vùng biên-giới; 2. dữ-kiện xã-hội và chính-trị phía bên Trung-Hoa; 3. dữ-kiện chính-trị và quân-sự phía người Pháp.
Ðể kiểm-soát vùng thượng-du, đặc-biệt cần-thiết cho việc phân-giới, các đạo quân Pháp phụ-trách
việc nầy chạm trán trước tiên là điều-kiện địa-lý.
“Cái khó-khăn của địa-hình” do “cấu-trúc hiểm-trở của núi-non” (J. Sion) và một sự soi-mòn rất mạnh do mưa lũ, tạo thành vô-số các sơn-cốc và rãnh sâu, nhất là tại các vùng nham-động (karstiques), tiếp theo là rừng-rậm nhiệt-đới, làm việc lưu-thông của quân Pháp cực-kỳ khó-khăn, nhưng nó lại dễ-dàng cho các lực-lượng đối-nghịch thiết-lập sào-huyệt. Mặc khác, vùng đất nầy rất nghèo, ít dân, (vài trăm ngàn dân cho một vùng đất lớn bằng một phần ba nước Pháp), chỉ cống hiến
cho đạo-quân chiếm-đóng một nguồn sống nghèo-nàn. Việc tiếp-viện cho đạo-quân nầy vì thế rất khổ-nhọc và rất hao-tốn cho hậu-phương xa-xôi.
Thêm nữa, chính-quyền bảo-hộ còn thừa-hưởng một tình-hình chính-trị không tốt-đẹp.
Người ta đã biết rằng quyền-lực của triều-đình An-Nam thì thường-xuyên yếu-ớt và chỉ cai-trị gián tiếp tại các vùng thổ-dân sinh-sống. Những người thần-phục vua An-Nam là do liên-quan huyết thống hay do sự qua lại của dân-chúng cư-ngụ tại Lào hay Trung-Hoa.
Hệ-thống xã-hội ở đây - sẽ không phi-lý khi gọi là phong-kiến – cho phép sự hiện-hữu một khu-vực
rộng lớn, thần-phục một dòng-họ, mà thái-độ của dòng-họ nầy có thể đem lại sự thuận-thảo hay chống-đối đối với triều-đình hay chính-quyền bảo-hộ. Như trường-hợp của gia-đình Ðèo-Văn-Trị, quyền-lực của người nầy trải ra một vùng rộng lớn chung-quanh Lai-Châu, vượt qua các giới-hạn biên-giới cổ-truyền giữa vương-quốc An-Nam và Trung-Hoa. Sự xây-dựng một hệ-thống quyền-lực khác ở ngoài vương-quốc chỉ thành-tựu nhờ ở một tập-hợp phức-tạp những thương-lượng về ngoại giao và vận-động quân-sự, đã được triều-đình An-Nam thực-hành từ hàng thế-kỷ nay, và lần-hồi các sĩ-quan Pháp cũng áp-dụng. Nhưng phải cần một thời-gian nhiều năm để các viên-sĩ-quan trên thấu hiểu được những sự-thật rắc-rối và đặt ra các phương-pháp chế-ngự, chấm-dứt phương-pháp chinh phục cổ-điển không những không có hiệu-quả mà gây ra nhiều tốn-kém.
Mặc khác, vào khoảng năm 60 của thế-kỷ thứ XIX, một phiền-phức khác đáng chú-ý đó là sự xâm nhập của người Hoa.
Những thảm-trạng xảy ra vào các thập-niên 50-70 của thế-kỷ 19 ở vùng Hoa-Nam đã đem lại những hậu-quả là làm rắc-rối thêm cho vấn-đề xác-định đường biên-giới 1885-1895.
Các tỉnh phía Nam và Tây-Nam của Trung-Hoa đã không phục-hồi lại sau các cuộc tàn-phá dữ-dội,
đó là việc nổi dậy của Thái-Bình Thiên-Quốc và của những người theo Hồi-Giáo; sau đó là các cuộc đàn-áp và truy-quét của triều-đình(1853-1878). Chỉ ở các tỉnh nầy thiệt-hại nhân-mạng lên đến hàng triệu người (ước-lượng tổng-quát là 50 triệu người chết). Hàng chục năm sau, có vùng thật rộng lớn hoàn-toàn không có một bóng người ở. Việc nầy đem lại hai hậu-quả: Thứ nhứt là sự hiệndiện chính-quyền Trung-Hoa ở vùng nầy rất mờ-nhạt, vì thế việc kiểm-soát biên-giới không hữuhiệu, cho dầu có nhiều quan-chức tại đây rất muốn làm. Thứ hai, quan-trọng hơn, trên lãnh-thổ ViệtNam, trong vòng một góc tư thế-kỷ là cảnh thanh-bình an-lạc - người ta sẽ thấy ở đây sự cần-thiết một đường-lối chính-trị về biên-giới. Vì thế mà vùng thượng-du Bắc-Kỳ đã bị tràn-ngập những nhóm người xa-lạ đến từ bên Trung-Hoa: đợt di-cư của dân-tộc Mèo lần thứ ba (và cũng là lần cuối cùng), dân số trên 10.000 người đến từ các tỉnh Quí-Châu, Vân-Nam và Quảng-Tây; những nhóm vũ-trang là những đầu-lĩnh nổi-loạn như Lý-Hồng-Choi (1878-1879), hay những nhóm nhỏ thuộc Thái-Bình Thiên-Quốc như giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng v.v.. và cuối cùng là khối nạn-nhân, những người khốn-khổ, chạy trốn sự giết-chóc và chết-đói – hôm nay chúng ta gọi là dân tị-nạn. Ðể sống còn, nhóm người nầy phải gia-nhập vào các đảng cướp. Cuộc “nam-tiến” nầy tạo thành những đoàn quân vũ-trang hùng-mạnh, tiến sâu cho đến cao-nguyên Cammon ở Lào (ngang với Nghệ-Tĩnh ở VN), được Pháp gọi dưới cái tên “invasion des Hô” – “sự xâm-lược của quân Hồ”.
Có nhiều hậu-quả xãy ra: phần lớn vùng thượng-du Bắc-Việt chạy dài cho đến phía bên kia rặng núi
ở Trung-Việt đã bị những nhóm vũ-trang Tàu xâm-chiếm mà các nhóm nầy có những mối tương quan phức-tạp với những quan-lại phong-kiến địa-phương. Toàn vùng vì thế càng thêm nghèo-khổ.
Tuy-nhiên, Trung-Hoa thì hưởng phần lợi từ những việc nầy. Bởi vì quân cướp ở bên Tàu bị đuổi ra khỏi biên-giới, Trung-Hoa trút được một gánh nặng. Mặc khác, bọn nầy trở thành một lực-lượng nhằm Hán-hóa dân-chúng ở Bắc-Kỳ, như là một khả-năng bành-trướng thường-trực của Trung-Hoa
(để đồng-hóa những dân-tộc khác). Việc nầy càng sâu-sắc hơn qua hai vụ can-thiệp quân-sự do quân-đội địa-phương (Hoa-Nam) tiến vào Bắc-Kỳ lần thứ nhất để tảo-thanh tàn quân của Ly-Hồng- Choi và lần thứ hai, theo lời kêu gọi của vua nhà Nguyễn (Tự-Ðức) bắt đầu từ năm 1883 vì sự gây hấn của Pháp. Nếu biến-động tổng-quát nầy bắt nguồn trực-tiếp từ việc hỗn-loạn tại Hoa-Nam vào tiền bán thế-kỷ thứ 19, thì ta không thể bỏ qua một thực-tế bao-quát và sâu-xa hơn, việc di-dân xãy ra liên-tục, từ thời tiền-sử, do những khối dân-chúng sinh-sống trong vùng rừng-núi Tây-Nam đến Nam Trung-Hoa, có nghĩa là trong bán-đảo Ấn-Trung (indochinoise - sự di-cư của dân Tày).
Việc thành-lập đường biên-giới đã là kết-quả của sự đụng-độ trên thực-địa Bắc-Kỳ giữa hai đế-quốc Pháp và Trung-Hoa, dưới những điều-kiện đặc-biệt như sau:
- Trung-Hoa bành-trướng trên vùng cao Bắc-Kỳ, khởi-đầu cho việc Hán-hóa dân-chúng. Sự việc các băng-đảng Tàu đóng-chốt lâu dài, sự việc rút quân của quân-đội Trung-Hoa cũng như quân giặc Cờ Ðen sau khi hiệp-ước Thiên-Tân được ký-kết. Tham-vọng của Trung-Hoa cố giữ những phần đất càng nhiều càng tốt thuộc An-Nam, việc nầy sẽ được thấy sau năm 1885. Việc thành-lập đường biên-giới hiện-đại không những chỉ nhằm vào việc đảo chiều cho những sự việc quan-trọng vừa xảy ra, đuổi về phía Trung-Hoa những đảng cướp Tàu, mà còn chận đứng một luồng di-dân cơ-bản từ Trung-Hoa xuống vùng Ðông-Nam Á, đồng-thời chuyển toàn vùng Ấn-Trung sang một thời-kỳ
lịch-sử khác.
- Một tình-hình quốc-tế phức-tạp, bất-lợi cho Trung-Hoa hơn là Pháp. Vì việc chinh-phục Bắc-Kỳ và Trung-Kỳ của Pháp đã được các đế-quốc khác chấp-nhận mà không có ngăn-trở đáng kể. Trong bối-cảnh ảnh-hưởng hổ-tương và quyền-lợi chính-trị giữa các đế-quốc, Pháp có nhiều thuận-lợi hơn là trở-ngại để mở-mang thuộc-địa. Hiệp-ước Thiên-Tân chấm-dứt và ngăn-chặn mọi khả-năng can thiệp của các cường-quốc Tây-Phương vào vấn-đề Bắc-Kỳ.
Việc phân-định biên-giới vì thế đã được thực-hiện giữa Trung-Hoa và Pháp qua ba giai-đoạn. Sự phân-định biên-giới và công-ước 1887.
Ban đầu cả hai chính-phủ đều mong-muốn công-việc thực-hiện mau lẹ và nghĩ rằng nó sẽ chấm-dứt nhanh-chóng. Từ 14 tháng 8 năm 1885 có những công-lệnh chỉ-định nhân-viên cho Ủy-Ban Pháp phụ-trách phân-định biên-giới và ngày 1 tháng 9, ông Patenôtre ở Bắc-Kinh đã thông-báo rằng các ủy-viên Trung-Hoa cũng đã được chỉ-định.
Hai ủy-ban họp tại Ðồng-Ðăng (gần Lạng-Sơn) từ tháng giêng đến tháng 4 năm 1886 để giải-quyết
biên-giới vùng Quảng-Tây, từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1886 tại Lào-Cai cho biên-giới Vân-Nam và từ tháng 12 năm 1886 đến tháng 4 năm 1887 tại Móng-Cái cho biên-giới Quảng-Ðông và biêngiới trên biển. Nhưng thực-tế công-việc không đơn-giản như mọi người đã tưởng ở Paris.
Ngoài những khó-khăn về địa-lý thiên-nhiên, còn có thêm sự cản-trở của tướng De Courcy, ông nầy
từ-chối không cung-cấp lính bảo-vệ cần-thiết cho ủy-ban. Trở-ngại nầy do từ tranh-chấp giữa các nhân-viên một bên thuộc ngoại-giao và một bên là quân-đội. Cuối cùng trở-ngại được giải-quyết qua sự can-thiệp của ông Freycinet, bộ-trưởng bộ ngoại-giao. Nó cũng hàm-ý cho thấy thời đó chính-phủ Pháp đã lựa-chọn một đường-lối chính-trị là quyết-định chiếm-đóng toàn-cõi Bắc-Kỳ, thay cho một đường-hướng chính-trị khác. Tướng De Courcy và bộ chiến-tranh Pháp chủ-trương một sự chiếm-đóng hạn-chế, chỉ giới-hạn trong vùng bình-nguyên và vùng chung-quanh, bỏ trống vùng thượng-du là một vùng không người “no man’s land”, và việc nầy sẽ có lợi cho các đảng cướp Tàu. Từ công-ước Bourée cho đến chương-trình thống-trị toàn-cõi nầy, cả một đường-lối chính-trị của Pháp đã được biểu-lộ theo chiều-hướng đó. Việc phân-định biên-giới đòi hỏi một sự chiếm đóng toàn vùng thượng-du như được dự-trù trong công-ước Patenôtre 1884, việc nầy đã gây ra nhiều hậu-quả đáng kể. Việc xây-dựng những đồn-trại ở các vùng Lạng-Sơn, Lào-Cai v.v.. đã đặt ra vấn-đề tiếp-liệu cho các đoàn quân tại các nơi nầy. Việc nầy được thực-hiện liên-tục nhiều năm bằng những đoàn cu-li cực-kỳ tốn-kém, nhân-lực cũng như tài-lực. Cũng như việc xây-dựng đường xe lửa Hà-Nội - Lạng-Sơn trở thành cần-thiết trong khi ngân-quĩ lại không có. Nhất là nước Pháp đã dấn-thân trong lúc công-luận tại đây lại đòi hỏi chấm-dứt mọi cuộc động-binh quan-trọng và lúc chính-phủ Pháp giới-hạn ngân-khoản cho đội-quân viễn-chinh vào việc đánh-đuổi các đảng cướp Tàu đang chiếm-đóng vùng thượng-du. Việc đánh-đuổi nầy kéo dài khoảng 10 năm, chiếm phần lớn lực-lượng quân-sự. Với hậu-quả, sự đối-cực của hai bên Pháp-Trung đã ảnh-hưởng đến cả việc bình-định các vùng dân-cư ở đồng-bằng.