lịch sử việt nam
Xin mời Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử trên Facebook
Là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa,
Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu bảo vệ cho sự sống còn của Tổ Quốc, của gia đình và của chính bản thân tôi.
Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành các mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền chia rẽ của giặc cộng.
Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.
Điều 4: Tôi luôn tâm niệm hành động làm mất lòng dân là xua dân về phía giặc cộng, là tự sát.
Điều 5: Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù.
Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi sẽ được đền bù bằng sự cảm mến và biết ơn của Đồng Bào.
---------------
Quân Sử Sư Đoàn Liên Đoàn Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng-Hòa
Biệt Động Quân vì dân quyết chiến !
Nguyễn Kim Biên
A- NGUỒN GỐC,HÌNH THÀNH CÁC ĐƠN VỊ RANGER (COMMANDO)
Từ buổi sơ khai, sau khi hình thành các bộ lạc trên địa cầu, các Tộc trưởng hiếu chiến, tham vọng mở rộng vùng ảnh hưởng gây ra cảnh chém. giết nhau…Những bộ lạc nhỏ yếu bị tàn sát, bị lấn áp, bị bắt làm nô lệ đa số là đàn bà con nít. Đàn ông, trai trẻ thoát chết, chạy trốn vào rừng núi rậm rạp, tìm cách phục thù. Họ ngấm ngầm từng toán nhỏ bất chợt xâm nhập giải thoát thân nhân và săn tìm cơ hội phục kích giết kẻ thù rồi tẩu thoát.
Khái niệm về Ranger được rõ nét hơn kể từ thế kỷ 13 tại Anh,sau đó ở Nam phi và Bắc Mỹ vào thế kỷ 17. Tại Bắc Mỹ,cuộc chiến giữa chính quyền bảo hộ và các bộ lạc da đỏ bản địa rất ác liệt. Dù trang bị thô sơ nhưng chiến binh da đỏ như những bóng ma tập kích các đồn hẻo lánh, các toán quân biên phòng của chính quyền bảo hộ. Để đáp ứng nhu cầu an ninh, bình định, năm 1676 quan niệm ranger ra đời: “Ranger phải là phần tử chuyên nghiệp, tổ chức thành toán nhỏ, gồm các thành viên da trắng, da mầu bản địa, bạn hữu, trực thuộc chính quyền địa phương hoạt động ở tuyến đầu, sưu tầm tin tức, báo động sớm các hoạt động của địch, đồng thời là đơn vị tiền sát, hướng đạo về dân tình, mục tiêu…cho lục lượng đặc nhiệm hoặc quân đội của chính phủ trong mọi cuộc hành quân.
Đến năm 1940, Commando và Ranger được tổ chức thành đại đội, kể cả một số independent companies của Anh và Úc biến cải thành Commandos. Tới năm 1943, quân đội Anh có 4 Britist commando Brigades, Mỹ có 6 US Ranger battalions. Xuyên suốt thế chiến 2(1939-1945), các lực lượng Commandos và Rangers tăng phái cho các đại đơn vị đồng minh ở chiến trường Châu Âu, vùng Địa trung hải cũng như mặt trận Thái bình dương với sứ mạng đặc biệt : đột kích phá hủy các cơ sở tiếp vận,các cứ điểm trọng yếu, phục kích các đoàn xe, hỏa xa vv…của phe Trục Đức-Ý-Nhật . Sau thế chiến 2,các đơn vị Commandos và Rangers được giải thể . Tuy nhiên khi có chiến tranh như cuộc chiến Triều tiên,các đơn vị này lại được thành lập, khi chiến tranh chấm dứt lại giải thể, nhưng vẫn duy trì các khóa huấn luyện Commando và Ranger cho các Sĩ quan và Hạ sĩ quan tới ngày nay .
B- BIỆT ĐỘNG QUÂN VIỆT NAM
B1/ THÀNH LẬP CÁC ĐẠI ĐỘI BIỆT ĐỘNG QUÂN
Ngày 26 tháng 10 năm 1955,cuộc trưng cầu Dân ý với kết quả trên 90% phiếu tín nhiệm Thủ tướng Ngô đình Diệm giữ chức Tổng thống thay thế Quốc trưởng Bảo Đại Nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi miền nam Việt nam, trao lại quyền độc lập hoàn toàn cho Việt nam .
Ngày 16 tháng 2 năm 1960, Tổng thống Ngô đình Diệm chỉ thị cho các Tư lệnh Sư đoàn và Quân khu thành lập các đại đội Biệt động quân, tuyển chọn từ các Sư đoàn bộ binh, Lực lượng phòng vệ dân sự (Bảo an đoàn) và các quân nhân giải ngũ. Tiêu chuẩn chọn lựa, theo ý Tổng thống Diệm, phải là các đơn vị bộ binh giỏi nhất, những cá nhân thật ưu tú tình nguyện .
15 đại đội được thành hình vào đầu tháng 3 năm 1960. 32 đại đội sau đó trực thuộc các Quân khu. 18 đại đội thuộc các Sư đoàn. Tất cả được trang bị quần áo bà ba đen, vũ khí gọn nhẹ, hành quân độc lập theo lệnh của Tiểu khu và Sư đoàn, đã gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp trong các cuộc tiễu trừ du kích cộng sản. Họ được xếp vào các đơn vị chiến đấu dũng cảm, bách chiến bách thắng, gây cho du kích cộng sản hoảng vía, cao chạy xa bay mỗi khi chạm súng với Biệt động Quân
B2/ THÀNH LẬP TTHL/BĐQ ĐÀ NẴNG VÀ SÔNG MAO
Trung tuần tháng 4 năm 1960, trong chuyến viếng thăm trường Biệt đồng đội Đồng Đế (sau đổi tên là TTHL/BĐQ Nha trang), Tổng thống Ngô đình Diệm rất hài lòng cách thức huấn luyện và thực tập do một số Sĩ quan Huấn luyện viên tốt nghiệp khoá Ranger tại Fort Benning,Georgia, Hoa kỳ về áp dụng. Trở về Sàigòn, Ông liền chỉ thị cho Bộ tổng tham mưu QLVNCH thành lập 2 TTHL/BĐQ, một tại Đà nẵng để huấn luyện Sĩ quan và Hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn 1, một tại Sông mao huấn luyện cho Sĩ quan,Hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4. Bộ TTM yêu cầu Phái bộ viện trợ Mỹ (Military assistance Advisory group) giúp đỡ tổ chức các toán huấn luyện viên hỗn hợp cho 2 TTHL này .
Trung tuần tháng 5/1960, Liên đoàn 77 Special Forces đến Việtnam chia làm 2 toán,một toán tới Đà nẵng và một toán đến Sông mao. Cũng trong thời gian này, các Sĩ quan Viêt nam tốt nghiệp khoá Bộ binh Cao cấp(IOAC) và Sĩ quan tốt nghiệp khoá Đại đội trưởng(AOC)tại trường Fort Benning,Georgia,Hoa kỳ, hồi hương về trình diện Ban quân huấn(sau này thành Tổng cục Quân huấn) thuộc Phòng 3 BTTM, và được phân phối về - TTHL/Sông Mao ,các Đại úy Đỗ văn Sáu, Hồ văn Phước, Trần công Liễu, Đào vĩnh Thi, Trần hữu Toán, Nguyễn ni Văn; các Trung úy Ngô minh Hồng, Quan minh Tống, Nguyễ văn Sảo và Phan văn Cẩm.
- TTHL/Đà Nẵng , gồm các Đại úy Nguyễn văn Đại(trưởng Toán) Trần văn Hai, Võ công Trí, Nguyễn hoành Bảo, Cao quốc Điền, Trần đình Nại, Cao văn Chơn; các Trung úy Nguyễn kim Biên, Phạm quang Vân, Nguyễn văn Vy và Hoàng tôn Oai.
Về phía các huấn luyện viên Mỹ tại TTHL/BĐQ Đằ nẵng gồm có: Thiếu tá Slade (Trưởng toán), các Đại úy Kaiser, Grimmett, Yohmes, Snyder, Trung úy Wynn, Thượng sĩ Gray, Schocomaker, Yones và Trung sĩ y tá Fouler.
Riêng tên các Huấn luyện viên Mỹ ở Sông mao không được rõ.
Ban chỉ huy TTHL/BĐQ Đà nẵng: Thiếu tá Chương phát Dưỡng Chỉ huy trưởng, một Thiếu úy phụ trách Tiếp liệu,Tiếp vận, một Thiếu úy phụ trách ẩm thực cho khoá sinh và 1 Trung đội bộ binh canh gác,tạp dịch…Tất cả thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh biệt phái. Cả 2 TTHL/BĐQ Đà nẵng và Sông mao đồng thành lập vào thượng tuần tháng 5 năm 1960.
Ở đây chỉ đề cập tới TTHL/BĐQ Đà nẵng làm điển hình. Ngày 25/5/1960, Thiếu tá Chương phát Dưỡng giới thiệu hai toán Huân luyện viên Mỹ,Việt, sau đó Huấn luyện viên VN cùng ngồi chung xe jeep của Huấn luyện viên Mỹ về cư xá Sĩ quan Đà nẵng, nơi cư ngụ của SQ/HLV Việt nam. HLV Mỹ về cư xá Phái bộ cố vấn Mỹ ở cuối đường Độc lập cạng song Hàn. Sau đó,mỗi buổi sáng tới đón HLV Việt nam vào TTHL(toạ lạc tại doanh trại của Bảo an đoàn cũ,phiá tây nam phi trường Đà nẵng kế cận QL 1 và Xã Phước tường,Hoà cầm). Công việc cấp bách của HLV Việt-Mỹ là thám sát địa điểm huấn luyện, tổ chức các bãi tập tại đèo Đại la, núi Ba Ra vùng Hoà Cầm, ven sông vùng Hà thanh, Nam ô….,cũng như dịch tài liệu, soạn phiếu huấn luyện, chuẩn bị trợ huấn cụ… Tất cả các phương tiện, tài liệu, vật liệu, văn phòng phẩm và phương tiện di chuyển đều do Team A 7th Special Task Forces cung cấp. Riêng phương tiện chuyển vận Khoá sinh do Đại đội Vận tải Sư đoàn 2 BB cung cấp bất cứ lúc nào theo yêu cầu.
Ngày 10/6/1960, các khoá sinh đến trình diện,chỉ phải đóng 6 tuần tiền ăn theo tiêu chuẩn bình thường. Tuy vậy suốt thời gian thụ huấn, khoá sinh được hưởng chế độ ăn uống cao và khẩu phần phụ trội sáng, trưa,chiều, không phải trả thêm một đồng nào. Khoá sinh được trng bị đầy đủ quân trang,quân dụng, vũ khí như một quân nhân tác chiến.
Thành phần khoá sinh, một phần tình nguyện theo học, phần còn lại được tuyển lựa gồm 50 HSQ, 50 SQ cấp Úy và cấp Tá, trong số cấp Tá có người là đương kim Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng Sư đoàn, Tỉnh trưởng. Theo nội qui, các khoá sinh tự gỡ bỏ cấp hiệu và mang số khoá sinh cho tới ngày mãn khoá.
Mỗi HLV Mỹ và Việt it nhất phải đảm nhiệm HLV chính(PI) một môn,ngoài ra sẽ làm HLV phụ(AI) cho các PI khác,hoặc kiêm thông dịch viên nếu PI là Mỹ. Riêng 2 Trưởng toán HLV Mỹ,Việt được miễn làm AI vì bận nhiều việc như lập lịch trình huấn luyện và tiếp đón,hướng dẫn VIP Mỹ,Việt đến thăm. Tóm lại,sự phối hợp huấn luyện giưã Mỹ và Việt rất nhịp nhàng,chặt chẽ, đồng đều. Chương trình huấn luyện 6 tuần lễ,thời lượng trung bình mỗi tuần 84 giờ bất kể ngày đêm. Chỉ có ngày chủ nhật, HLV, Khoá sinh được nghỉ xả hơi…Riêng HLV phải họp mặt vào lúc 10 giờ sáng chủ nhật để kiểm điểm công tác trong tuần.
Các môn học gồm: Phục kích, Phản phục kích, Đột kích,Thám sát, Kỹ thuật sưu tầm tin tức, Chiến tranh chống du kích, Bơi lội, Vượt sông, Mìn, Cạm bẫy,Chất nổ, Cấp cứu sơ khởi, Mưu sinh thoát hiểm, Cận chiến, Tác xạ làm quen các loại vũ khí, Tác xạ di động, Tác xạ phản ứng nhanh ngày đêm, Di hành với ba lô, súng đạn(nặng 15kgs), Leo núi, Băng rừng và trên đường về đi gia tốc đoạn đường dài 10kms và Bài tập dã ngoại 48 giờ. Ngoài ra, Tập thể dục từ 4 đến 5 giờ sáng mỗi ngày,cũng như đu xà ngang 15 lần trước khi vào phòng ăn.
Hình phạt thông thường là hít đất, nhẩy xổm, chạy vòng vòng. Theo thông lệ HLV biểu diễn trước, khoá sinh bị phạt thi hành sau. Khoá sinh nào khai bệnh nghỉ 2 ngày trở lên đều bị loại, phải học lại khoá kế tiếp.
Lễ mãn khoá 1 BĐQ dưới quyền chủ toạ của Trung tướng Trần văn Đôn,Tư lệnh Quân đoàn 1. Ông đã khen ngợi Khoá sinh “tích cực thụ huấn” và tuyên dương TTHL BĐQ Đà nẵng là đơn vị duy nhất của Quân đoàn: “làm việc không biết mệt mỏi, hoàn thành trách nhiệm huấn luyện tối ưu”.
Kết quả huấn luyện qua vóc dáng, nét mặt của 100 khoá sinh tốt nghiệp so với ngày đầu đến thụ huấn, đã biến mầu da thành sạm nắng, nâu đậm (nếu không muốn nói là đen kịt), nhưng rất khoẻ mạnh, vui vẻ, năng động, cương nghị, tự tin hơn nhiều. Khoá sinh rời khỏi Trung tâm cũng là lúc tất cả Huấn luyện viên được nghỉ 15 ngày phép về thăm gia đình, bạn hữu.
Trung tuần tháng 8/1960, Team A 7th Special Forces mãn nhiệm về nước. Thiếu tá Lê tích Thiểu(tốt nghiệp khoá 1 BĐQ) giữ chức CHT/TTHL/BĐQ Đà nẵng thay Thiếu tá Chương Phát Dưỡng. Kể từ khoá 2 BĐQ khai giảng vào cuối tháng 8/1960, Huấn luyện viên Việt nam hoàn toàn đảm nhận mọi trọng trách huấn luyện với sự tiếp tay của một số SQ, HSQ vừa tốt nghiệp được lưu giữ làm phụ tá huấn luyện viên và sự yểm trợ tích cực của Toán Cố vấn Mỹ do Thiếu tá John Warren là Cố vấn trưởng đến từ 1st Special Task Forces Okinawa.
Ngoài 2 TTHL/BĐQ Đà nẵng và Sông mao, TTHL/BĐQ Nha trang hậu thân của Trường BĐĐ Đồng đế, đặc trách huấn luyện cho SQ, HSQ thuộc Quân đoàn 2. Song song với 3 TTHL nêu trên, còn có TTHL/BĐQ Trung hoà và Thất sơn huấn luyện bổ túc các đại đội BĐQ.
B3- THÀNH LẬP BỘ CHỈ HUY BIỆT ĐỘNG QUÂN
Ngày 1 tháng 7 năm 1960, Bộ TTM/QLVNCH chính thức thành lập Binh chủng Biệt động Quân, Bộ chỉ Huy đặt tại một doanh trại cũ đường Tô hiến Thành, quận 3 Sàigòn, có nhiệm vụ quản trị, điều hành, bổ sung quân số, trang bị, thanh tra,theo dõi, thống kê mọi hoạt động của tất cả các đơn vị Biệt Động Quân….
Chỉ huy Trưởng đầu tiên của Binh chủng là Thiếu tá Phan trọng Chinh, kế tiếp là Thiếu tướng Tôn thất Xứng, Chuẩn tướng Lam Sơn, Chuẩn tướng Phan xuân Nhuận, Trung tá Trần văn Hai, Trung tá Trần công Liễu và cuối cùng là Thiếu tướng Đỗ kế Giai cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ban Tham Mưu gồm có: Chỉ huy Phó kiêm Tham mưu Trưởng, Phòng quản trị nhân viên, Phòng kế họach và điều hành, Phòng tiếp vận và tiếp liệu, Phòng tâm lý chiến và xã hội, Phòng an ninh, Trung đội canh gác
Ngay sau khi thành lập BCH/BĐQ, Phù hiệu, Huy hiệu BĐQ được thực hiện theo mẫu vẽ của Đại úy Nguyễn thành Chuẩn gồm :- Phù hiệu mang trên cánh tay áo trái là hình khiên, nền vàng có đầu beo đen, ngôi sao trắng.
- Phù hiệu trên beret nâu là nhành dương liễu vàng, mũi tên có cánh mầu trắng nằm ngang.
- Huy hiệu đeo trên ngực áo là nhành dương liễu mầu vàng,hai thanh kiếm gác chéo, có ngôi sao vàng, dành cho tất cả Sĩ quan và Hạ sĩ quan kể cả Cảnh sát và Đồng minh tốt nghiệp khoá BĐQ hoặc khoá Rừng, Núi, Sình lầy.
Quân phục tác chiến của BĐQ là rằn ri mầu hoa rừng. Kể từ ngày thành lập Binh chủng, tất cả BĐQ không phân biệt cấp bậc đều dược hưởng thêm 300 đồng tiền VN một tháng ngoài tiền lương ấn định.
B4- THÀNH LẬP TTHL/BĐQ DỤC MỸ
Ngày 1/8/1961, Bộ TTM/QLVNCH quyết định sát nhập các TTHL/BĐQ Đà nẵng, Nha trang, Sông mao thành một TTHL/BĐQ thống nhất tại Dục mỹ, toạ lạc tại Doanh trại cũ của Sư đoàn 23 BB, kế cận quốc lộ 21 giữa Quận lỵ Ninh hoà và Khánh dương. Cùng thời gian này TTHL/BĐQ Trung hòa và Thất sơn được sát nhập thành TTHL/ BĐQ Trung lập chuyên huấn luyện bổ túc các Tiểu đoàn BĐQ. Đại úy Trần đình Nại nguyên là huấn luyện viên ở TTHL/BĐQ Đà nẵng được chỉ định giữ chức Chỉ huy trưởng TTHL/BĐQ Trung lập, Thiếu tá Tom Henry là Cố vấn trưởng .
TTHL/BĐQ Dục mỹ gồm: Chỉ huy Trưởng, Chỉ huy Phó, Tham mưu Trưởng, Phòng Quản trị nhân viên, Phòng An ninh Tỉnh báo, Phòng 3, Phòng Tài chánh,Phòng Tiếp vận Tiếp liệu, Phòng Quân huấn, Liên đoàn khoá sinh, Ban truyền tin, Bệnh xá, Ban Chỉ huy trại cùng 2 đại đội 301, 302 (canh gác, tạp dịch, làm địch giả, diễn tập)
Phòng Quân huấn là quan trọng nhất gồm có các Ban Nghiên cứu, Ban Kế hoạch, Khoa Chiến thuật, Khoa Tổng quát và Vũ-Tác-Mìn, Ban trợ huấn cụ. Có nhiệm vụ huấn luyện :
- Khoá Căn bản BĐQ cho tân khoá sinh
- Khoá Rừng Núi Sình lầy
- Khoá Bổ túc Tiểu đoàn BĐQ
- Khoá Viễn thám
Chỉ huy Trưởng TTHL/BĐQ Dục mỹ đầu tiên : Trung tá Vĩnh Biểu, kế đến Đại tá Đặng văn Sơn, Trung tá Nguyễn văn Kiên, Thiếu tá Trần công Liễu, Trung tá Nguyễn hữu Phú, Trung tá Nguyễn khắc Trường, cuối cùng là Đại tá Nguyễn văn Đại cho đến ngày 30/4/1975.
Chương trình huấn luyện 42 ngày đêm liên tục,trung bình 18 giờ/ngày. Các môn học tương tự như ở TTHL/BĐQ Đà nẵng trước đây,chỉ thêm môn đi dây kinh dị,dây tử thần,tuột núi và lục soát xóm làng Việt cộng.-Riêng khoá RNSL có 10 mười ngày thực tập tại căn cứ núi rừng (phiá bắc Dục mỹ khoảng 10 kms), 10 ngày thực tập tại căn cứ sinh lầy chân đèo Rọ tượng kế cận quốc lộ 1(giưã quận lỵ Ninh hoà và Nha trang).
- Khoá huấn luyện bổ túc Tiểu đoàn có thêm Bài tập Bộ chỉ huy(Tham mưu) 24 giờ và cuộc thực tập hành quân 72 giờ trong vùng đồng ruộng, làng mạc, đồi núi phiá Tây Bắc quận lỵ Ninh hoà .
Tất cả khoá sinh các khoá mỗi khi di chuyển bộ đến lớp học hoặc bãi tập luônluôn trong tư thế súng cầm tay, đeo ba lô nặng 15kgs. Hình phạt thông thường là hít đất,nhẩy xổm,chạy. Đôi khi Sĩ quan kỷ luật hoặc Huấn luyện viên phạt tập thể, cá nhân bất cứ lúc nào,không cần lý do. Ngoài ra,khoá sinh RNSL khai bệnh nghỉ dù chỉ 1 ngày,mãn khoá chỉ được cấp Chứng chỉ thay vì cấp bằng tốt nghiệp.
TTHL/BĐQ Dục mỹ còn đảm nhiệm huấn luyện RNSL cho Sinh viên SQ Võ bị Đà lạt, Thủ đức, Cảnh sát Quốc gia và đặc biệt 2 khoá cho SQ, HSQ Đại hàn.
Tất cả HLV nòng cốt ban đầu đều tốt nghiệp ở các Quân trường Fort Benning Georgia, Fort Bragg North Carolina, nhưng khi TTHL/BĐQ Đà nẵng, Nha trang, Sông mao giải tán, tập trung về Dục mỹ chỉ còn khoảng một nửa, nửa còn lại xin trở về đơn vị gốc tại Huế, Đà nẵng, Nha trang, Biên hoà và Sàigòn. Các thế hệ HLV kế tiếp đều tốt nghiệp các khoá BĐQ Đà nẵng,Nha trang, Sông mao và RNSL Dục mỹ.
Từ cuối năm 1961 đến tháng 11/1963, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Đặng văn Sơn TTHL/BĐQ Dục mỹ nổi tiếng là “Lò Luyện Thép”không những ở trong nước mà tiếng vang đến khắp vùng Đông Nam Á Châu. Rất nhiều phái đoàn cao cấp của Quân đội Đồng minh cùng Chính khách quan trọng, các Tướng lãnh Tư lệnh các Quân đoàn và BTTM/QLVNCH thường xuyên đến thăm. Thành quả nêu trên nhờ vào tất cả mọi Thành viên thuộc TTHL có kinh nghiệm, năng nổ, nhiệt tình, tự giác, gương mẫu với phương pháp huấn luyện sáng tạo, thực tiễn, khắt khe, kỷ luật, lý thuyết ngắn gọn, thực hành tối đa, rèn luyện cả Tinh thần lẫn Thể chất cộng thêm sự trợ giúp của các Cố vấn.
Lễ mãn khoá đơn giản nhưng trang trọng, Khoá sinh nhận bằng Tốt nghiệp với lòng tự hào tươi vui, chính lúc này là lúc họ đã lột xác từ Bạch diện thư sinh thành các pho Tượng đồng đen, sẵn sàng lao vào cuộc chiến với tinh thần Bất khuất…..
B5- THÀNH LẬP CÁC TIỂU ĐOÀN BĐQ
Nhiều Tiểu khu đã xử dụng các đại đội BĐQ sai nguyên tắc, không đúng với chức năng, tệ hơn nữa, họ dùng BĐQ để canh gác, bảo vệ Tỉnh trưởng. Vì vậy, theo đề nghị của MACV(Military Assistance Command VN) vào đầu năm 1962, Bộ TTM thu hồi các đại đội này, thành lập 3 Tiểu đoàn BĐQ :-Tiểu đoàn 10 tại Đà nẵng (Quân đoàn 1) -Tiểu đoàn 20 tại Pleiku (Quân đoàn 2) - Tiểu đoàn 30 tại Sàigòn(Biệt khu Thủ đô) với nhiệm vụ tiến sâu vào lòng địch, lục soát, truy tìm tiêu diệt chúng.
Năm 1963,Quân đội Bắc việt gia tăng xâm nhập vào miền nam Việt nam, mở rộng chiến tranh. Biệt động quân được xử dụng càng lúc càng nhiều nhằm ngăn chặn VC chặn đứng các cuộc chuyển quân và tiếp vận từ miền Bắc vào. Để đáp ứng trọng trách này, ngoài 3 Tiểu đoàn đã thành lập như : TĐ 11(TĐ 10 đổi tên), TĐ 21(TĐ 20 đổi tên), TĐ 30(giữ nguyên), thành lập thêm các TĐ 22/BĐQ tại Dục mỹ, TĐ 32 và 33 BĐQ tại Sàigòn. TĐ 32,33 sau khi được huấn luyện tại Trung lập đặt thuộc quyền QĐ3 vào tháng 5/1963. Sau đó 4 Ban đại diện BĐQ tại 4 Quân khu được thành hình tại Đà nẵng, Pheiku, Biên hoà, Cần thơ. Tổ chức và trách nhiệm của các Ban đại diện tương tự như Bộ chỉ huy BĐQ trung ương, không trực tiếp chỉ huy hay điều động các đơn vị BĐQ hành quân.
Sau cuộc đảo chính (1/11/1963) lật đổ nền đệ nhất Cộng hoà,Bộ tứ Tướng “Minh, Đôn, Xuân, Đính” chỉ thị phá bỏ hệ thống Ấp chiến lược do Đệ nhất Cộng hoà thiết lập nhằm mục đích tách rời du kích cộng sản ra khỏi làng mạc thôn ấp. Có thể đây là một quyết định sai lầm của các Tướng nói trên. Lợi dụng sự bất ổn chính trị và sự yếu kém của chính quyền Quân nhân, du kích cộng sản nằm vùng chỗi dậy, quân chủ lực miền Bắc xâm nhập công khai vào các vùng dọc theo biên giới Việt, Lào, Miên. để đối phó với tình hình này, theo lệnh của Bộ TTM/QLVNCH, các đại đội BĐQ còn lại lần lượt được tổ chức thành 15 Tiểu đoàn BĐQ hoàn tất vào năm 1965. Đến thời điểm này Binh chủng BĐQ/QLVNCH có tổng cộng 20 Tiểu đoàn như sau :
-Quân đoàn 1; Tiểu đoàn 11, 37, 39 BĐQ
-Quân đoàn 2: Tiểu đoàn 21, 22. 23 BĐQ
-Quân đoàn 3: Tiểu đoàn 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 38, 51, 52 BĐQ
-Quân đoàn 4: Tiểu đoàn 41, 42, 43, 44 BĐQ
Các Tiểu đoàn đều tự trị,dưới quyền chỉ huy và điều động trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Quân đoàn.
B6- THÀNH LẬP CÁC LIÊN ĐOÀN BĐQ
Ngày 1/7/1967,các Ban đại diện BĐQ ở Quân khu hoàn tất việc giải thể, tái tổ chức thành Liên doàn, để có thể điều động nhanh, thống nhất chỉ huy, đủ khả năng đối đầu với chủ lực quân cộng sản Bắc việt.
Liên đoàn BĐQ là lực lượng Trừ bị, Phản ứng nhanh của Quân đoàn, nhưng nhiều trường hợp đã đặt họ chiến đấu như những đơn vị bộ binh.
-Liên đoàn 1 BĐQ (tại Đà nẵng)gồm: Tiểu đoàn 37, 39, 21(hoán chuyển TĐ11 BĐQ năm 1966) BĐQ
-Liên đoàn 2 BĐQ (tại Pleiku)gồm : Tiểu đoàn 22, 23, 11 BĐQ
-Liên đoàn 3 BĐQ (tại Biên hoà)gồm: Tiểu đoàn 31, 36, 52 BĐQ
-Liên đoàn 4 BĐQ (tại Cần thơ)gồm : Tiểu đoàn 42, 43, 44 BĐQ
-Liên đoàn 5 BĐQ (tại Sàigòn) gồm : Tiểu đoàn 30, 33, 38 BĐQ
-Liên đoàn 6 BĐQ (tại Sàigòn) được thành lập trễ vào tháng 3/1969, gồm: Tiểu đoàn 51, 34, 35 BĐQ
Hai Liên đoàn 5 và 6 là Lực lượng Tổng trừ bị, sẽ tăng phái tới bất cứ Quân khu nào tình hình chiến sự đòi hỏi.
B7- THÀNH LẬP BỘ CHỈ HUY BĐQ QUÂN ĐOÀN
Theo chỉ thị 100-9 của Bộ TTM Liên Quân QLVNCH, ngày 22/5/1970 thiết lập tại mỗi Quân đoàn một Bộ chỉ huy BĐQ (ngoài Ban tham mưu còn có 1 đại đội Truyền tin, 1 đại đội Yểm trợ), đảm trách nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị Dân sự chiến đấu (Civilian Irregular Defense Group)nguyên thuộc Lực lượng đặc biệt Mỹ,Việt nam tổ chức,huấn luyện,tài trợ và trang bị. Hầu hết các thành viên Đơn vị Dân sự Chiến đấu là người Dân tộc thiểu số. Việc sát nhập,tái tổ chức CIDG và BĐQ kéo dài tới ngày 4/ 1/1971 mới hoàn chỉnh thành 37 Tiểu đoàn BĐQ Biên phòng, sau nhiều cuộc bàn luận giưã Bộ TTM/LQ/QLVNCH, MACV, BTL Quân đoàn và Cố vấn Quân đoàn.
-Quân đoàn 1 có 8 Tiểu đoàn BĐQ Biên phòng
-Quân đoàn 2 có 12 Tiểu đoàn BĐQ Biên phòng
-Quân đoàn 3 có 9 Tiểu đoàn BĐQ Biên phòng
-Quân đoàn 4 có 8 Tiểu đoàn BĐQ Biên phòng
Ngày 29/9/1971, Tướng Abram,MACV đồng thuận với BTTM/LQ VNCH cho thực hiện đồng nhất Lực lượng chủ lực BĐQ gồm có 21 Tiểu đoàn BĐQ thành 7 Liên đoàn BĐQ, mỗi Liên đoàn có 3 Tiểu đoàn. 4 Liên đoàn trực thuộc Bộ chỉ huy BĐQ Quân đoàn. Ba(3) Liên đoàn còn lại trự thuộc Bộ chi huy BĐQ trung ương là Lực lượng Tổng trừ bị của Bộ TTM Liên quân.
B8- VAI TRÒ CỐ VẤN CỦA CÁC TIỂU ĐOÀN BĐQ
Mỗi Tiểu đoàn BĐQ có một Toán Cố vấn (2 SQ,1HSQ và 1Binh sĩ Truyền tin). Nhiệm vụ của cố vấn trưởng là góp ý vối Tiểu đoàn trưởng về chiến thuật, kế hoạch hành quân, liên lạc với các đơn vị Hoa kỳ trong các cuộc hành quân phối hợp hoặc trong vùng để khi cần xin pháo yểm,không yểm, hải pháo, trực thăng yểm trợ chiến đấu hoặc tản thương và máy bay quan sát…Tóm lại sự giao hảo giữa Cố vấn và BĐQ các cấp dù ở hậu cứ hay tiền tuyến đều rất thân thiện,hài hoà, họ luôn luôn sát cánh bên nhau, cùng vào sinh ra tử, đầy tình đồng đội, tận sức cứu giúp bảo vệ nhau khi gặp hiểm nguy.
Một số đông cố vấn Mỹ cho BĐQ được tưởng thưởng huy chương Anh dũng bội tinh của QLVNCH, đồng thời cũng có khoảng 50 Cố vấn BĐQ tử thương (hy sinh tại mặt trận). Điều đáng ghi nhận là sự quan hệ giữa Cố vấn và đối tượng BĐQ/VN rất tốt đẹp hơn bất cứ Quân, Binh chủng nào khác (Theo lời Học giả Gerald Canon Kickey dựa vào cuộc phỏng vấn 320 Cố vấn Hoa kỳ). Đến cuối năm 1973, người Cố vấn cuối cùng thầm lặng hồi hương.
C- TÁI TỔ CHỨC VÀ PHỐI TRÍ BĐQ
Tháng 9/1973, Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH đệ trình lên Tổng thống Nguyễn văn Thiệu bản đánh giá và tái hoạch định cơ cấu tổ chức cùng việc xử dụng BĐQ và được chấp thuận. Những điểm chính trong kế hoạch là :
- Bãi bỏ hệ thống Tiền đồn biên giới, các Tiểu đoàn BĐQ biên phòng được tái tổ chức thành Liên đoàn BĐQ, với Di động tính có khả năng trở lại hoạt động vùng biên giới nếu cần hoặc được điều động tới các chiến trường sôi động.
- Có đủ Lực lượng làm Tổng trừ bị cho Bộ TTM, thay thế Sư đoàn Dù và Sư đoàn TQLC được bố trí tại mặt trận Quân khu 1.
- Giải tán Biệt khu 44 vì tình hình QK 4 lắng dịu (đơn vị chủ lực và du kích VC bị loại khỏi vòng chiến).Giải thể 8 Tiểu đoàn BĐQ biên phòng thuộc QK 4 bổ sung cho các Tiểu đoàn BĐQ QK 1 và QK 2 đang thiếu hụt quân số.
- Phối trí lại 58 Tiểu đoàn BĐQ (kể cả BĐQ biên phòng) còn 45 Tiểu đoàn kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1974 như sau :
a. Quân khu 1 gồm có :
- Liên đoàn 11 BĐQ : Tiểu đoàn 68, 69, 70
- Liên đoàn 12 BĐQ : Tiểu đoàn 21, 37, 39
- Liên đoàn 14 BĐQ : Tiểu đoàn 71, 78, 79
- Liên đoàn 15 BĐQ : Tiểu đoàn 60, 61, 94
b. Quân khu 2 gồm có :
- Liên đoàn 21 BĐQ : Tiểu đoàn 72, 89, 96
- Liên đoàn 22 BĐQ : Tiểu đoàn 62, 88, 95
- Liên đoàn 23 BĐQ : Tiểu đoàn 11, 22, 23
- Liên đoàn 24 BĐQ : Tiểu đoàn 63, 81, 82
- Liên đoàn 25 BĐQ : Tiểu đoàn 67, 76, 90
c. Quân khu 3 gồm có :
- Liên đoàn 31 BĐQ : Tiểu đoàn 31, 36, 52
- Liên đoàn 32 BĐQ : Tiểu đoàn 30, 33, 38
- Liên đoàn 33 BĐQ : Tiểu đoàn 64, 83, 92
d. Tổng trừ bị(trực thuộc Bộ TTM/QLVNCH) gồm có :
- Liên đoàn 4 BĐQ : Tiểu đoàn 42, 43, 44
- Liên đoàn 6 BĐQ : Tiểu đoàn 34, 35, 51
- Liên đoàn 7 BĐQ : Tiểu đoàn 32, 85, 58
Do tình hình QK 4 lắng dịu, Liên đoàn 4 BĐQ được chuyển về Lực lượng Tổng trừ bị, QĐ 4 không còn Lực lượng BĐQ trực thuộc
Tóm lại, Kế hoach tái cấu trúc không những đáp ứng đúng khả năng, sở trường chiến đấu của BĐQ còn tái lập một Lực lượng Tổng trừ bị năng động trong tay của vị Tổng tham mưu trưởng, cũng như một Lực lượng hùng mạnh, phản ứng nhanh dưới quyền điều động của Tư lệnh Quân đoàn 1, 2, 3 để đối phó kịp thời với tình hình chiến sự ngày càng khốc liệt.
D- CÁC TRẬN CHIẾN TIÊU BIỂU CỦA BĐQ
Kể từ đầu năm 1965, Quân lực VNCH, phải đối đầu với các đại đơn vị chủ lực của cộng sản Bắc Việt (có ưu thế về hỏa lực,đại pháo, hỏa tiễn 122ly và xe tăng). BĐQ được các vị Tư lệnh chiến trường xử dụng tối đa vào các trận chiến gay go, ác liệt, hiểm nguy, nhưng với truyền thống bất khuất,dũng cảm,thiện chiến,quyết tử,luôn luôn áp dụng chiến thuật “Bất ngờ, mau lẹ” cũng như cấp chỉ huy lúc nào cũng ở tuyến đầu với binh sĩ, điển hình Tiểu đoàn trưởng luôn luôn đi với đại đội tiên phong.. Nhờ vậy BĐQ đã đạt nhiều chiến thắng oai hùng,vẻ vang, xin được ghi lại một số trận đánh, chiến thắng tiêu biểu :
D1- TIỂU ĐOÀN 42 BĐQ , do Thiếu tá Nguyễn văn Biết chỉ huy trong cuộc hành quân “Dân chí 100” vào đầu năm 1965, Tiểu đoàn được trực thăng vận xuống xã Đại ngãi, Long phú, Ba xuyên, dưới sự yểm trợ của trực thăng Cobra và phản lực cơ F4 của Hạm đội 7 Hảỉ quân Hoa kỳ, sau 4 ngày giao tranh ác liệt với các đơn vị VC :
Kết qủa : -154 Việt cộng bỏ xác tại chỗ, 12 tên bị bắt. Tiểu đoàn 42 tịch thu 5 đại liên phòng không 12.7 ly, 3 súng không giật 57 ly, 3 thượng liên 12.8 ly, 8 súng B40 5 súng B41 và 59 súng cá nhân đủ lọai.
-Ta thiệt hại 12 chiến sĩ hy sinh trong đó có Đại úy Phan Tiểu đoàn phó và 35 bị thương, 2 trực thăng UH1D bị bắn rơi.
Ngoài Anh dũng bội tinh đủ loại do Tướng Nguyễn hữu Có đại diện trao gắn, Tiểu đoàn còn được tuyên dương “US Presidential Unit Citation” do Đại tướng William C. Westmoreland, Tư lệnh quân đội Hoa kỳ tại Việt nam đại diện Tống thống Hoa kỳ trao tặng.
D2- TIỂU ĐOÀN ĐẶC NHIỆM BĐQ (2 Đại đội Tân binh BĐQ+1 Đại đội Địa phương quân) do Đại úy Nguyễn kim Biên chỉ huy, tăng phái cho Sư đoàn 23 BB tham dự hành quân “Vũng Rô”quận Hiếu xương, tỉnh Phú yên :
- Ngày 20/2/1965,Tiểu đoàn được phân nhiệm đổ bộ bằng tầu Hải quân vào bãi biển Vũng Rô (nơi chiếc tầu cộng sản bị không quân Việt nam bắn chìm, trước đó Đại đội Biệt kích Dù+1 tiểu đội người nhái đổ bộ khám xét ngày 18/2/65 tịch thu hơn 1000 súng CKC còn nguyên trong thùng, nhưng vì hỏa lực của cộng quân qúa mạnh, gây cho một số Biệt kích thương vong và 1 Thượng sĩ HQ trên pháo tháp tử thương, Biệt kích phải rút lui) Tiểu đoàn BĐQ tiến về phía Đông Bắc khoảng 1km,bắt đầu chạm địch (Sư đoàn 3 Sao vàng). Sau 2 ngày giao tranh ác liệt với địch tại vùng rừng núi Tây Bắc đồi Hải đăng, địch đã chịu tổn thất nặng nề…
Kết qủa : - 25 cộng quân bỏ xác tại chỗ cùng với 11 AK47, 1 trung liên Tiệp khắc, 11 CKC . Ngoài ra Tiểu đoàn BĐQ còn tịch thu thêm 83 CKC còn mới nguyên trong bao khi cộng quân vác chạy phải bỏ lại để chạy thóat lấy người.
- Ta, có 2 BĐQ bị thương nặng, được trực thăng chở về Quân y viện Nha trang,nhưng sau đó đã từ trần. 4 BĐQ khác bị thương nhẹ.
Trong lễ Tuyên dương dưới quyền chủ tọa của Thủ tướng Phan huy Quát, Tổng Tham mưu Trưởng Trung tướng Trần văn Minh và Đại tướng William C. Westmoreland, tại BTL/SĐ 23 BB,Ban mê Thuột, 32 huy chương Anh dũng bội tinh gồm nhành dương liễu, vàng, bạc, đồng đã được trao gắn cho BĐQ, cùng nhiều huy chương khác cho các Quân nhân các cấp thuộc Hải, Lục, Không quân tham dự hành quân.
Các nhật báo Anh, Pháp, Việt ngữ xuất bản tại Sàigòn đều tường thuật về chiến thắng Vũng Rô : “Hàng trăm cộng quân bị tiêu diệt, chiếc tầu chở vũ khí của cộng sản bị bắn chìm, hàng ngàn vũ khí cùng đạn dược của cộng sản đã bị Quân ta tịch thu” cùng trên trang nhất đăng hình ảnh Đại úy Nguyễn Kim Biên dưới tiêu đề Tiểu đoàn Trưởng BĐQ, Anh hùng Vũng Rô .
D3- TIỂU ĐOÀN 37 BĐQ
Dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Sơn Thương,hành quân giải tỏa áp lực địch tại căn cứ Thạch trụ,Quảng ngãi do 1 đại đội Điạ phương quân trú phòng. Đêm 21/11/ 1965, Tiểu đoàn tăng cường phòng thủ, được phi, pháo Việt nam và hải pháo của Tuần dương hạm Saint Paul Hải quân Hoa kỳ tại bến Sa huỳnh yểm trợ, đã bẻ gẫy chiến thuật biển người,tiền pháo hậu xung của Trung đoàn 914 và Trung đoàn 18 thuộc Sư đoán 325 cộng sản Bắc Việt quyết san bằng căn cứ Thạch trụ. Qua 6 đợt xung phong, 2 bên quần thảo nhau một mất một còn kéo dài gần tới trưa hôm sau.
Kết quả : - 225 xác cộng quân nằm rải rác trên chiến địa, một số nằm vắt ngang trên hàng rào kẽm gai,một số trong căn cứ. 3 sơn pháo 75 ly, 1 súng không giật 57 ly, 2 đại liên 30(7.62mm),200 súng AK 47, súng cá nhân, 3 máy truyền tin Trung cộng bị tịch thu.
- Ta, 40 BĐQ và ĐPQ hy sinh, 80 bị thương, 2 Cố vấn tử thương .
Chiến thắng Thạch trụ, Đại tướng William C. Westmoreland đại diện Tổng Thống Hoa kỳ trao tặng “US Presidential Unit Citation” cho Tiểu đoàn 37 BĐQ. Thiếu tá Sơn Thương được vinh thăng Trung tá cùng rất nhiều quân nhân tham chiến cũng được tưởng thưởng xứng đáng.
D4- TIỂU ĐOÀN 21 BĐQ
Do đại úy Nguyễn văn Sách chỉ huy, tăng phái cho Chiến đoàn giải tỏa, cứu viện căn cứ Pleime (1 Toán Lực lượng đặc biệt VN, 12 Cố vấn Mỹ và 400 Dân sự chiến đấu trú đóng) bị Trung đoàn 32+ cộng sản Bắc việt bao vây tấn công vào đêm 19/10/ 1965. Trên trục tiến quân, Chiến đoàn gồm Trung đoàn Thiết kỵ do Trung tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy, Tiểu đoàn 21 BĐQ , và Đoàn xe GMC tiếp tế lương thực, đạn dược cùng 2 khẩu đại bác 105 ly, 3 xe M113 hộ tống đoạn hậu, bị phục kích. Tất cả quyết đánh trả,dẹp tan cuộc phục kích, nhất là các chiến sĩ BĐQ đã bình tĩnh,gan lì, nhanh chóng phản phục kích cùng với hỏa lực dũng mãnh của chiến xa M41 và thiết vận xa M113 tiêu diệt cộng quân từ các ngọn đồi, ven rừng tràn xuống tấn công biển người. Cuộc chiến ác liệt diễn ra suốt ngày đêm cho đến sáng ngày hôm sau(23/10/ 1965). Các Tiểu đoàn 344, 635, 966 thuộc Trung đoàn 32 CSBV, cùng 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 33 tăng cường bị tan nát chạy về vùng núi Chu Prong.
Kết quả : -Trung đoàn 32CSBV tổn thất 40%, 2 Tiểu đoàn trưởng chết, 18 khẩu 12.7mm, 11 súng cối 82ly bị tịch thu và bị hủy diệt bởi phi pháo, 92 súng AK47, Carbine,CKC bị tich thu cùng nhiều mìn, lựu đạn, đạn súng cối…..Trung đoàn 33 cộng sản thiệt hại nặng hơn Trung đoàn 32 địch.
-Chiến đoàn cứu viện tổn thất 8 xe vận tải, 2 thiết vận xa M 113, 2 đại bác 105ly bị phá hủy bởi B40,SKZ 57ly, Sơn pháo 75ly của địch và 60 quân nhân (có 3 Sĩ quan) tử trận, 72 bị thương (bao gồm BĐQ,TG, ĐPQ). Chiến đoàn cứu viện tiếp tục tiến theo trục hành quân đến giải cứu Pleime. Có lẽ địch dồn hết lực lượng để đánh phục kích đã thất bại, nên việc giải tỏa rất nhẹ nhàng.
Việt-Nam Sử-Lược Tân-Biên_Lịch-Sử Việt-Nam
Bài Viết Tin-Tức Thời-Sự Mới Nhất có liên quan đến Lịch-sử Việt- Nam và Lich su viet nam
***
Điện-Ảnh - Thơ Văn - Sáng-Tác - Hồi-Ký - Triết-Học - Truyện
________
- Giới-Thiệu Các Web, Blog Mới - Trúc-Lâm Yên-Tử