lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Trang Thơ Kita Kha

...

Trang Thơ Văn Mặc Khách

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Nhơn

...

Trang Thơ Văn Thanh Sơn

...

Trang Thơ Văn Vĩnh Nhất Tâm

...

Trang Thơ Văn Phạm Ngọc Thái

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Thị Thanh

...

Văn Hóa Tộc Việt

...

Ủng Hộ Trúc Lâm Yên Tử - Donate

...

 

Văn Hóa Triết Học Việt Nam - Tam Giáo Đồng Nguyên

Hùng Vương Với Ý-Thức Dân-Tộc

Nguyễn Đăng Thục

Hàng năm đến ngày 10 tháng 3, nhân-dân Việt-Nam trước đây từ cấp lãnh-đạo cho đến nông-dân các cấp xã-hội, kéo nhau đến trước đền thờ Vua Hùng trên núi Nghĩa-Lĩnh tỉnh Phú-Thọ làm lễ Quốc tế, nơi cố đô Phong-Châu của nòi-giống Việt. Đấy thật là một vị-trí hùng-vĩ của giang-sơn khi mới mở, phía Đông là núi Tam-Đảo, phía Nam là núi Tản-Viên, ở giữa nhìn xuống hai giòng Lô-giang và Thao-giang, gặp nhau ở Bạch-Hạc.

Giữa Đền trên, một bức hoành-phi với bốn chữ đại-tự :
" VIỆT NAM TRIỆU TỔ "
( Việt-Nam Thủy tổ dựng nước ) .

Trên bàn thờ có mười ba chữ bài-vị :
" ĐỘT NGỘT CAO SƠN CỔ VIỆT HÙNG THỊ THẬP BÁT THÁNH VƯƠNG VỊ "
( Vòi vọi núi cao họ Hùng nước Việt xưa 18 bài vị Vua Thánh. Thật là phong-cảnh vĩ-đại, dấu địa linh con Lạc cháu Hùng ) .

" Mấy tầng vây bọc, chọc trời muôn trượng lâu đài.
Bốn vách điểm tô, khắp đất một bầu phong nguyệt ."

Quốc-sử Diễn-ca rằng :
" Kể từ trời mở Viêm bang.
Sử đầu có họ Hồng-Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm-Đế thứ ba.
Nối dòng hỏa đức gọi là Đế-Minh.
Quan phong khí giá Nam hành

Hay đâu Mai-Lĩnh duyên sinh Lam-Kiều.
Vụ Tiên vừa thủa đào yêu.
Xe loan nối gót tơ điều kết duyên.
Dòng Thần sánh với người Tiên.
Tinh anh nhóm lại thánh hiền nối ra
."

Đấy là tín-ngưỡng nòi-giống Rồng Tiên của dân-tộc Việt trải bốn ngàn năm một nước " Văn hiến chi bang". Chúng ta không biết Việt-Nam là một nước Văn hiến kể từ bao giờ, chỉ biết trên đất Giao-Chỉ gồm Quảng-Đông, Bắc-Việt và phía Bắc Trung-Việt ngày nay vốn là nơi gặp gỡ của hai chủng-tộc, một thuộc về văn-minh Đông-Sơn mà di-tích tiêu-biểu Trống Đồng hiện thấy rải rác từ phía Nam Dương-Tử cho đến Nam-Dương quần-đảo, và một thuộc về văn-minh Lạch-Trường mà di-tích tiêu-biểu là Cổ Mộ Thiên động rải rác từ Tứ-Xuyên xuống đến Thanh-Hóa. Có lẽ vì sự gặp gỡ hai chủng-tộc thuộc hai tinh-thần văn-hóa, một chủng-tộc từ lục-địa phương Bắc xuống với một chủng-tộc từ hài-đảo phương Nam lên, cho nên dân Việt ta đã lý-tưởng-hóa thành dòng-dõi Rồng Tiên. Nhưng đấy là tín-ngưỡng truyền-thống dân-tộc và đã là tín-ngưỡng thì nó có một giá-trị thiêng-liêng ở đức tin tập-thể .

Một hôm, học trò Khổng-Phu-Tử là Tử-Cống hỏi thày về chính-trị phải làm thế nào ?

Khổng-Tử đáp : " Phải đủ ăn cho dân, phải đủ binh để bảo-vệ cho nước, phải cho dân tín-ngưỡng ".

Tử-Cống lại hỏi : " Nếu bất đắc dĩ mà phải bỏ một trong ba điều-kiện : thực, binh và tín thì nên bỏ cái nào trước " ?

Khổng-Tử đáp : " Nên bỏ binh đi trước " !

Tử-Cống lại hỏi : " Nếu bất đắc dĩ trong hai điều còn lại là thực và tín thì nên bỏ điều gì trước " ?

Khổng-Phu-Tử đáp : " Bỏ sự ăn đi, bỏ ăn mà chết thì xưa nay người vẫn chết, nhưng nhân-dân mất tín-ngưỡng thì không tự-lập được ." _ ( Luận-Ngữ )

Đấy là tín-ngưỡng đối chính-trị của một dân-tộc trọng-đại là nhường nào. Nguyễn-Trãi am hiểu cái sức mạnh ấy lắm đối với nhân-dân nên đã cảnh-cáo Lê-Lợi :

( Dân như nước, có thể chở được thuyền, có thể đánh đắm được thuyền ).
" Dân như thủy, năng tái chu, năng phúc chu ."

Đấy là do sức mạnh của tín-ngưỡng cho nên dân ngu mới có sức mạnh như thần-lực. Và Swami Vivekananda trong bài nói về sự thiết-yếu của tín-ngưỡng tôn-giáo đã tuyên-bố :

" Trong tất cả các sức mạnh đã hành-động và còn đang hành-động để uốn-nắn vận-mệnh của loài người, thì hẳn rằng không một sức mạnh nào mạnh hơn là cái sức biểu-hiện ra gọi là tín-ngưỡng tôn-giáo. Tất cả những tổ-chức xã-hội đều xây-dựng trên nền-tảng của cái sức mạnh đặc-biệt ấy, và cái động-cơ cấu kết vĩ-đại nhất giữa các phần-tử nhân-loại với nhau cũng do cái năng-lực tôn-giáo tạo ra cả. Một điều rất hiển-nhiên cho tất cả chúng ta là ở rất nhiều trường-hợp sự đoàn-kết của tôn-giáo đã chứng-minh mạnh hơn cả sự đoàn-kết của chủng-tộc hay thủy-thổ, mạnh hơn cả thân-tộc nữa. Ai cũng biết rằng những người cùng tôn thờ một Thượng-Đế, tín-ngưỡng cùng một tôn-giáo, đoàn-kết với nhau chặt-chẽ và bền bỉ hơn cả những người cùng một họ, hơn cả anh em ruột nữa ." _ ( Lectures on Jnana Yoga by Swami Vivekananda)

Sự thực trong lịch-sử thế-giới từ xưa đến nay, từ Đông chí Tây chúng ta thấy biết bao nhiêu đế-quốc xây-dựng trên sức mạnh của võ-lực, của kinh-tế hay của pháp-chế, hết sức vĩ-đại như đế-quốc La-Mã, đế-quốc Tấn-Thủy-Hoàng, đế-quốc Mông-Cổ, chẳng mấy chốc đã sớm tiêu-tan so với các đạo thống của Phật-giáo, của Thiên-Chúa-giáo, của Khổng-giáo, của Ấn-Độ-giáo, của Hồi-giáo. Cho hay sức mạnh của tín-ngưỡng là một liên-hệ đoàn-thể thống-nhất bền-bỉ, thâm sâu và bền-bỉ hơn cả kinh-tế, chính-trị hay là binh-bị, gọi chung là pháp-thống vậy .

Sở dĩ dân-tộc Việt-Nam chúng ta, sau sự thất-bại của Trưng-Nữ-Vương với đế-quốc nhà Hán phương Bắc, trải suốt hơn một ngàn năm Bắc-thuộc mà không bị đồng-hóa là nhờ có cái tín-ngưỡng dân-tộc bền-bỉ vào Tổ quốc. Đấy là đạo-thống của Việt-tộc, tín-ngưỡng vào cái Hồn chung của đoàn-thể tức là Hồn-nước, Quốc-túy, Quốc-hồn vậy .

" Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn ." _ ( Phan-Bội-Châu )

Vậy Hồn-nước là gì ?

Theo Nhân-loại-học về lịch-sử, tâm-lý xã-hội hiện-đại, thì ở thời tiền-sử, kỹ-thuật chưa có, loài người sinh-sống theo sông ngòi để bắt cá hay là vào rừng núi để rình mồi. Đấy là thời ăn lông ở lỗ, ăn sống nuốt tươi, ý-thức chưa phát-triển, chắc hẳn bấy giờ chưa có cái chi gọi là Hồn-nước. Xã-hội là xã-hội mẫu-hệ mà cổ sử Tầu gọi là thời-kỳ " Tri mẫu bất tri phụ, dã sử huyệt cừ " _ ( Hàn-Phi-Tử ). Xã-hội ấy là xã-hội cộng-sản nguyên-thủy, chưa có phân-công còn sống chung đụng. Nhưng cái đoàn-thể ấy sớm ý-thức sự liên-hệ của mình để phân-biệt với đoàn-thể mẫu-hệ khác vì cái lệ " Dị tộc hôn nhân " ( Exogamie ) và mỗi đoàn-thể tôn-sùng một Vật-tổ ( Totem ) khác nhau, như Rồng, Tiên, Mặt-trời, Gà-trống v.v... Giữa Vật-tổ với các phần-tử người trong đoàn-thể phảng-phất một mối quan-hệ thần-bí như nhà xã-hội-học Pháp đã nhận thấy : " Nếu Vật-tổ là con Sói thì tất cả các phần-tử của một bộ-lạc đều tin rằng tổ-tiên mình là Sói và đều có tính-tình của loài Sói. Cho nên họ ứng-dụng vào chính bản-thân họ cái tên là ( Bộ-lạc Sói)" .
Vậy một Bộ-lạc là một Lang như người trên Thượng-du Bắc-Việt, và một Lang là một xã-hội gia-tộc, một đại-gia-đình, trong đó tất cả phần-tử tự coi nhau như là bà con thân-thuộc với nhau, đồng-bào, đồng-chủng:

" Bấu ơi thương lấy Bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
."

Tình đồng-bào ấy thật ra không phải cùng một huyết-thống cha mẹ đẻ ra mà là cái mối quan-hệ có tính-chất Thần-bí tín-ngưỡng, chính là tín-ngưỡng Vật-tổ, vì ở các dân-tộc bán-khai xa cách nhau hết sức mà cũng có tính-chất giống nhau, tương-tự với nhau. Phải chăng đấy là nguyên-lai đầu tiên của tôn-giáo mà Vật-tổ là biểu-tượng cho Tổ-quốc ? Theo nhà xã-hội-học Durkheim thì trong xã-hội mẫu-hệ thờ chung một Vật-tổ có những giới-điều cấm-đoán rất nghiêm như cấm-đoán loạn-luân chẳng hạn. Sở dĩ người ta lấy hệ-thống của Mẹ là vì người đàn ông khi lấy vợ phải đến ở nhà vợ cho nên cái Vật-linh của đoàn-thể chỉ truyền lại cho con cháu theo mẫu-hệ. Trong một gia-tộc Vật-linh ấy, không phải người Mẹ cầm quyền mà quyền-bính lại thuộc về toàn-thể gia-tộc, có chủ-quyền về tài-sản công-cộng. Như thế thì ở xã-hội gia-tộc Vật-tổ ấy người ta đã có một ý-thức tập-thể, một cái hồn chung cho cả đoàn-thể, có tính-cách Thần-bí thiêng-liêng, choán mất hết cả ý-thức cá-nhân. Cái hồn chung ấy là lý-tưởng, là lẽ sống của mọi phần-tử trong một đoàn-thể. Đấy là nguyên lai ý-niệm Tổ-quốc vì Vật-tổ là Tổ-tiên Thần-bí của đoàn-thể vậy. Trước khi các Bộ-tộc tìm định-cư vào một lãnh-thổ nhất-định, hay còn du-mục, lang thang nay đây mai đó thì cái ý-thuc Vật-tổ đã có rồi. Vật cơ-bản thống-nhất xã-hội riêng-biệt khởi kỳ thủy thuộc về loại tín-ngưỡng tinh-thần chứ không phải cơ-bản lãnh-thổ địa-lý. Đấy là Hồn-nước, đấy là Tổ-quốc.

" Một dân-tộc, như Ernest Renan tuyên-bố ở Đại-học Sorbonne ngày 2 tháng 3 năm 1882, là một linh-hồn, một nguyên-lý tâm-linh. Hai vật mà sự thật chỉ là một, đã cấu-tạo ra cái linh-hồn ấy. Một vật thuộc về cái gia-bảo chung, đầy những di-tích kỷ-niệm. Một vật là sự đồng tâm nhất-trí hiện-tại nguyên-vọng sống chung, ý-chí kế nghiệp làm vẻ vang các gia-bảo đã thừa hưởng bất phân của tiền-nhân .

" Ở quá-khứ một gia-tài là những vinh-quang và tiếc nhớ để san sẻ. Ở tương-lai một chương-trình tương-tự để thực-hiện. Đã cùng nhau đau-khổ, sung-sướng, hy-vọng, đấy còn hơn những biên-giới thương chính chung và những biên-giới theo kế-hoạch chiến-lược, chiến-thuật. Đấy là cái gì để cho người ta thông-cảm với nhau, mặc dầu có những sự phức-tạp về chủng-tộc và ngôn-ngữ khác nhau. Đã từng cùng nhau đau-khổ. Đau-khổ đoàn-kết người ta thân-mật chặt-chẽ hơn là sung-sướng. Để kỷ-niệm dân-tộc thì quốc-tang có giá-trị hơn là vinh-quang, bởi vì chúng đặt cho chúng ta những phận-sự trách-nhiệm đòi hỏi một sự cố gắng chung. Một dân-tộc là một đại đoàn-kết tạo nên bởi cái ý-thức về những hy-sinh đã làm và sẵn sàng hưởng ứng. Một đại đoàn-thể người nhiệt-tâm và sáng suốt tạo nên một ý-thức luân-lý, một lương-tâm gọi là Tổ-quốc. Chừng nào cái ý-thức lương-tâm ấy tỏ sức mạnh của nó bằng những hy-sinh của cá-nhân phải đem phụng-sự cho đoàn-thể, thì cái ý-thức lương-tâm ấy là chính đáng. Nó có quyền được có thật ) .

Cái quan-niệm một dân-tộc là một linh-hồn trên đây chính là tín-ngưỡng truyền-thống của nhân-dân Việt-Nam vào Tổ-quốc, vào Hồn-nước như Cụ Phan-Bội-Châu đã kêu gọi :

" Thương ơi ! công-nghiệp Tổ-tông.
Nước tanh máu chảy, non chồng thịt cao.
Non nước ấy biết bao máu mủ.
Nỡ nào đem nuôi lũ sài-lang.
Cờ ba sắc xứ Đông-Dương,
Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau.
Nhục vì nước mà đau người trước.
Nông nỗi này non nước cũng oan.
Hồn ơi, về với giang-san
."
_ ( " Ái-quốc ca " – Phan-Bội-Châu )

Và Lê-Thái-Tổ sau mười năm đánh đuổi quân Minh, khơi phục giang-san cũng dâng cống lên Tổ-quốc như một linh-hồn :

" Vật gốc tự Trời, người gốc tự Tổ, ví như cây có gốc, nước có nguồn. Gốc tốt thì lá tươi, nguồn sâu thì giòng dài. Nếu không nhờ ân-nhân của Tổ-tiên bồi đắp sâu dày, phúc đức kết-tinh lớn lao thì đâu được thế .

" Ta gặp buổi nhiễu nhương hoạn nạn, mở nước dựng nền càng khó khăn. May Trời tựa dân theo, làm nên công-nghiệp thực do Tổ-tông tích đức lũy nhân thì mới tới được ". _ ( Lam-Sơn Thực-Lục )

Người Việt tin rằng Tiên-Tổ của mình khác với người Tầu, thuộc nòi giống Bách-Việt ở phía Nam Lục-địa Trung-Hoa như chính sử-gia Tầu Lã-Sĩ-Bằng gần đây đã nhận-định rằng : " Ông Aurousseau ở ‛ Bác-Cổ Học-Viện ’ đã suy-đoán dân-tộc Việt-Nam nguyên xuất-phát từ nhóm Bách-Việt. Thuyết ấy rất chính-xác. Gần đây những sự nghiên-cứu và phát-hiện về các phương-diện Khảo-Cổ-học, Nhân-loại-học, Ngữ-học, Dân-tộc-học, đủ chúng-minh cho thuyết ấy .

" Trong nhóm Bách-Việt, một ngành đi xuống phương Nam, khiến cho dân-tộc ấy trở nên một dân-tộc có thể bảo-tồn được chủng-tộc-tính nguyên-thủy, chưa hóa thành di-dân bị Hán-tộc đồng-hóa, do điều-kiện thuận-tiện của địa-lý. Cho nên trong khoảng bốn năm từ 221 đến 214 trước C.N nó có thể chống-cự với quân nhà Tần. Từ Hán-Vũ-Đế diệt họ Triệu ( III tr. C.N. ) về sau, Việt-Nam tuy thuộc vào Trung-Hoa hơn một ngàn năm, thấm-nhuần văn-hóa Hán-tộc nhưng không bị đồng-hóa và thu hút, kết cục vào thế-kỷ X nó đã thoát-ly khỏi Trung-Hoa, đứng độc-lập. Còn như Âu-Việt phía Đông, Mãn-Việt, Triệu-Đà, các chi Việt-tộc khác từ thời nhà Hán đến nay đã bị thu hút vào trung-tâm Hán-tộc để bị đồng-hóa mà trở nên dân Tầu ở các tỉnh Triết, Mãn-việt, Quế ngày nay vậy ". _ ( Đông-Nam-Á Nghiên-cứu Chuyển-san, t.3 )

Sở dĩ Việt-Nam là ngành Việt-tộc cuối cùng không bị như các chi ngành khác sát-nhập vào Trung-quốc, để bảo-tồn lấy dân-tộc-tính cho tới ngày nay chính là nhờ ở cái sức mạnh mẽ của tín-ngưỡng Địa-linh, Nhân-kiệt, tức là Hồn-nước, vì trong cái tín-ngưỡng cổ-truyền Việt-Nam là di-tích Cổ-mộ ở Lạch-Trường đã xác-chứng tín-ngưỡng Tổ-Tiên với tín-ngưỡng Thiên-Nhiên hợp làm một ở Thiên-Động, người chết quàn trong hang-động. Và ngược giòng lịch-sử, cái Hồn-nước Việt-tộc bắt đầu từ Hùng-Vương dòng-dõi Tiên Rồng, như nhà ái-quốc Phan-Bội-Châu đã khóc nhà ái-quốc Phan-Chu-Trinh ...

" Dấu Địa-linh con Lạc cháu Hồng người sao trước có sau không, kinh sấm sét hỡi đau lòng hậu bối ! "

Sử chép :

" Một hôm Lạc-Long-Quân bảo với Âu-Cơ rằng : ( Ta là loài Rồng, nàng là loài Tiên, thủy hỏa tương khắc, khó chung sống với nhau được.) Vợ chồng từ đấy phân-ly, chia con làm đôi, năm mươi con theo mẹ về núi, năm mươi con theo cha về bể, cắt con trưởng làm Vua Hùng-Vương nối ngôi, đặt quốc-hiệu là Văn-Lang, đóng đô ở Phong-Châu, nay là Bạch-Hạc truyền mười tám đời đều gọi là Hùng-Vương ."

Từ đấy nàng ở lại phương Bắc với đàn con, chàng đi xuống phương Nam với đàn con. Ở bộ-lạc du-mục thì còn nhiều tính-chất của xã-hội cộng-sản nguyên-thủy. Đến khi chuyển sang định-cư ở đồng-bằng Bắc-Việt ngày nay theo chế-độ nông-nghiệp, thì Lang biến thành Làng, tinh-thần bái-vật biến dần sang tín-ngưỡng Tổ-Tiên, Vật-tổ biến thành Tổ-quôc, lấy sơn-hà xã-tắc làm cơ sở, chế-độ phụ-hệ thay thế cho chế-độ mẫu-hệ để thích-ứng với điều-kiện kinh-tế sinh-hoạt mới từ thiên-hạ vi-công " biến sang " thiên-hạ vi-gia " cần phải có thừa-tự cha truyền con nối " .

Trong khi ấy thì Hán-tộc ở phía Bắc tại lựu-vực Hoàng-hà đã dựng cơ-nghiệp xong đang sửa soạn bành-trướng xuống phương Nam.... vì luôn luôn bị Bắc-địch xâm-lăng, Hán-tộc mới ngó xuống miền Nam sôngDương-Tử của dân Bách-Việt, sách " Giao-Châu Vực-ký " là sách sử cổ nhất Trung-Hoa, có viết :
" Đời xưa, khi nước Giao-Chỉ chưa chia làm Quận, Huyện, nghĩa là chưa bị Hán-tộc đô-hộ, thì lãnh-thổ chia ra thành những cánh-đồng gọi là Lạc-Điền. Trong những cánh-đồng ấy, nước lên xuống theo thủy-triều, dân-cư cầy bừa những ruộng ấy để sinh-nhai ."

Giáo-sư Maspéro trường " Viễn-Đông Bác-Cổ " kết-luận về nước Văn-Lang của giống Lạc-Hồng : " Xã-hội có trật-tự trên dưới và phong-kiến tương-tự với dân Thái, dân Mường ở miền Đà-giang và các vùng giáp-giới Bắc-Việt với Ai-Lao ngày nay .

" Về phương-diện vật-chất thì cũng khá tiến-bộ. Dân ở Bắc-Việt xưa kia cày ruộng không dùng cày và trâu mà dùng cuôc bằng đá chuốt .

" Họ đã biết cấy một năm hai mùa, và nếu thật họ biết lợi-dụng được mực nước sông lên xuống để cho nước vào ruộng, thì họ cũng đã là những nhà-nông giỏi. Còn về binh-khí họ có những chiếc cung lớn độ vài thước cao để dùng bắn những mũi tên có tẩm thuốc độc, họ đã biết đúc đồng để làm mũi tên .

" Họ hay ưa vẽ mình, búi tóc đàng sau gáy và chít khăn cũng như bây giờ con cháu họ còn theo. Tuy rằng Triệu-Đà gọi nước họ là " nước của dân lõa lồ " nhưng không nên hiểu theo nghĩa đen của lời ấy ."
Xem như thế thì những truyện cổ-tích Việt-Nam không hẳn là hoang-đường mà còn hàm-xúc ý-nghĩa sâu rộng thâm-trầm linh-động, phản-chiếu cái tiềm-thức tập-thể của dân-tộc từ ngàn xưa về đời Hùng vậy. Đấy là ý-nghĩa dân-chủ và lõa-lồ của Chủ-Đồng-Tử, ngụ cả một triết-lý hay tôn-giáo thiên-nhiên hay tự-nhiên :

" Lõa lồ cam phận khố nhường cha.
No ấm tuy may chẳng quản mà.
Bến nước một cần buông có lúc.
Giang-san riêng một bãi phù-sa.
Thuyền Tiên đôi lứa duyên tiền-định.
Đạo Phật viên thành thắng nghiệp qua.
Đạo Tổ trời Nam Đồng-Tử trước.
Thông Thần một niệm Đạo không xa
."
_ ( Hội Chân Biên )

Nhưng phản-chiếu đầy đủ và trung thực cái tiêm-thức xã-hội nông-nghiệp Việt-Nam hơn hết là truyện cổ " Bánh-Chưng Bánh-Giầy " một cặp bánh hình vuông, hình tròn dâng cúng Tổ-tiên ngày Tết đầu năm Âm-lịch. Đấy còn ngụ cả một ý-thức-hệ luân-lý chính-trị của dân-tộc nông-nghiệp thời cổ, lấy Hùng-Vương làm khởi thủy, tượng-trưng cho Quốc-hồn Quốc-túy vậy .

Trước hết cái ý-thức-hệ ấy bắt đầu bằng cái ý-nghĩa thiêng-liêng của ba ngày Tết còn chi-phối tư-tưởng và hành-động của chúng ta, người Việt từ Bắc chí Nam, từ nông-thôn đến đô-thị, mãi tới nay chưa chút phai mờ, đúng như câu nói trứ-danh của Tây-phương : " Les traditions des morts pèsent d'un poids sur le cerveau des vivants ", nghĩa là ( Truyền-thống của người chết đè nặng trên đầu người sống ) .

Vua Hùng-Vương muốn chọn người thay-thế mình để lãnh-đạo quốc-gia dân-tộc mới gọi con cháu lại bảo : " Năm hết Tết đến phải nhớ sắm sửa lễ-vật để cúng Tổ-tiên." Lời dạy ấy rất tự-nhiên vì làm người ai mà chẳng có cái lương-tâm biết ơn tiền-nhân, trước hết là nhớ ơn người thân-yêu đã quá-cố, nhớ công sinh-thành dưỡng-dục của cha mẹ :

" Công cha như núi thái-sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
."

Các người mất đi, chúng ta tin như còn phảng-phất đâu đây :

" Chồng nhớ vợ lòng tơ bối rối.
Con thương mẹ, lụy ngọc tuôn dầm.
Có linh chín suối đừng sao lãng.
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm
." _ ( Bùi-Hữu-Nghĩa )

Chúng ta tin ngưỡng nơi người thân yêu của chúng ta không chết với xác thịt. Đấy là tín-ngưỡng linh-hồn bất tử của sự thờ phụng Tổ-tiên, như cụ Phan-Bội-Châu đã khóc Cụ Phan-Chu-Trinh :

" Vẫn biết tinh-thần di tạo-hóa,
Sống là còn mà chết cũng như còn
."

Do tín-ngưỡng ấy mới có tinh-thần đoàn-kết ái-quốc ái-quần của dân-tộc, cùng nhau sinh tử cộng tồn trên lãnh-thổ của Tổ-tiên để lại, từng tưới bằng máu nóng, bón bằng xương khô .

Vậy tôn-giáo Tổ-tiên chính là tôn-giáo cổ-truyền nhất của Việt-Nam, khiến chúng ta ngày nay còn nhớ đến ngày giỗ Tổ. Nhà tôn-giáo-học danh tiếng, Linh-mục La Cadière đã nhận-thức :

" Tín-ngưỡng Tổ-tiên chi-phối toàn-thể gia-đình cũng như tín-ngưỡng Thần-linh chi-phối đời sống hàng ngày của người dân Việt " .... _ ( Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens )

Đấy là hai nguồn tốn-giáo tối cổ của nhân-loại, tôn-giáo linh-hồn Tổ-tiên với tôn-giáo Thần-linh Thiên-nhiên đã hợp-nhất trong tâm-hồn truyền-thống Việt-Nam .

Và ngày giỗ Tổ-tiên quan-trọng nhất ở xã-hội nông-nghiệp là ngày Tết đầu năm, đánh dấu một vòng thời-tiết bốn mùa : xuân, hạ, thu, đông, ở khí-hậu Bắc-Việt. Để tỏ lòng biết ơn Tiên-Tổ, người ta dâng cúng công-lao tất cả một năm của nông-dân ở cặp bánh Chưng, bánh Giầy làm bằng gạo, đỗ, lá xanh, thịt heo v.v... sản-phẩm nông-nghiệp. Nhưng ăn Tết đối với nông-dân không phải chỉ có nghĩ đến Tổ-tiên mà thôi. " Năm hết Tết đến " trong tâm-hồn nông-dân còn là cụ-thể-hóa cái tín-ngưỡng " Nguồn sống " tuần-hoàn đại-đồng bất-tuyệt của thời-tiết. Đấy là điểm thứ hai của cái ý-thức-hệ Lạc-Việt .

Nếu các tôn-giáo lớn trên thế-giới tin Thượng-Đế. Thực-tại tối cao là ánh-sáng thì dân nông-nghiệp Lạc-Việt sớm tín-ngưỡng vào thực-tại tối cao là nguồn sống vĩnh-cửu tràn ngập Vũ-trụ, Thời Không, luân lưu trong trời đất một ý-chí sinh-hóa như Cao-Bá-Quát đã nói : " Kiền khôn nhất sinh ý ". ( Một ý-chí sinh hóa duy-nhất của Trời Đất coi như cha mẹ ). Với tín-ngưỡng lạc-quan yêu đời ấy, nông-dân nhẫn-nại cần-cù trên mảnh đất ruộng vuông, tùy theo thời-tiết bốn mùa tuần-hoàn hàng năm mà trồng trọt gặt hái. Nhà nhân-loại-học René de Hetrelon đã biện-biệt sự khác nhau giữa tính-tình Đông, Tây căn-cứ vào cách-thức sinh-hoạt như sau :

" Người trồng cây lúa hành-động theo cách-thức giống như pháp-thuật hay tôn-giáo. Hành-động của nó không thấy ngay hiệu-quả trước mắt.

Gặp thời-tiết nhất-định trong một năm, tùy với vị-trí của ngôi sao đã định ra, nó bắt đầu làm đất, một công việc kỳ lạ không có hiệu-quả tức thì. Trong đống đất đã vun xới ấy, nó vùi những củ hay rắc những hạt giống ăn được, cần để nuôi thân. Sau đấy, khi đã làm xong những công-tác tập-truyền, nó bèn đợi chờ. Nó bảo-vệ giữ-gìn các mảnh đất đã trồng trọt hay gieo cấy bằng các cách ngăn ngừa không cho các giống vật khác đến quấy phá sự nẩy nở. Nó bảo-vệ một cách thụ-động tiêu-cực, một vài tháng sau nó thu-hoạch được gấp bội kết-quả của những vật nó đã đặt xuống dưới đất ."

Sinh-hoạt có tính-cách thần-bí thì tín-ngưỡng cũng đượm màu huyền-bí. Nhà nông không phải chỉ tham-gia vào phạm-vi thiêng-liêng có tính-cách không-gian, ruộng đất mầu mỡ, động-lực trong hạt giống, nhưng công việc của họ còn được hợp hóa và bị điều-khiển bởi cả một thời-gian, bởi cả một vòng thời-tiết. Sự liên-kết nông-nghiệp với vòng tròn thời-tiết tuần-hoàn giải-thích được nhiều nghi-lễ có quan-hệ đến sự " tống cựu nghinh tân ". Có lẽ vì thế mà ở Á-đông hai phạm-trù thời-gian và không-gian đã đi liền với nhau thành Vũ-Trụ như định-nghĩa là " Xưa đi nay lại gọi là Trụ, bốn phương trên dưới gọi là Vũ ". Và nông-dân Việt-Nam đã giầu tưởng-tượng để sớm cụ-thể-hóa hết sức linh-động ra cái hình vuông, hình tròn của cặp bánh Chưng, bánh Dày chồng lên nhau, mà thực-chất là tất cả sản-phẩm hoạt-động căn-bản của nhà nông. Đấy là cả một vũ-trụ-quan không do suy-luận mà ra, nó là vũ-trụ-quan thiêng-liêng của cả một xã-hội sinh-hoạt về tình-cảm, lý-trí và ý-chí đầy đủ đã kết-tinh thành một Tượng-trưng ví như hình Bát-quái của Trung-Hoa hay hình chữ Svasica ( Vạn ) của Ấn-Độ. Trong cái khuôn thiêng Vũ-trụ, Trời tròn Đất vuông Thời Không ấy .....

" Khuôn thiêng biết có Vuông Tròn cho chăng ? " _ ( Nguyễn-Du ) thì người lãnh-đạo quốc-gia phải ý-thức làm sao cho thích-hợp với cộng-đồng của Việt-tộc cùng cuộc sống riêng của cá-nhân, như nhà cách-mệnh quốc-gia Việt-Nam cận-đại, Cụ Phan-Bội-Châu, khi mới bước chân ra khỏi nhà tù Hà-Nội, đã nhắn nhủ đồng-bào toàn-quốc :

" Trăm năm tính cuộc Vuông Tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông
."
_ ( Truyện Kiều )

Ở trường-hợp Vua Hùng-Vương, nhà vua đang lo lắng băn-khoăn, đang dò " ngọn nguồn lạch sông " để tìm người nối nghiệp có khả-năng đức độ " tính cuộc vuông tròn " cho sơn-hà xã-tắc, cho Quốc-gia Dân-tộc của nòi-giống Lạc-Hồng. Nhà Vua đã không nghĩ đến tư-lợi, từ chối " trân cam mỹ vị, của báu vật lạ " mà trao ngôi lãnh-đạo nhân-dân cho Lang-Liêu chỉ có cặp bánh vuông, bánh tròn là vì đấy là người hiểu-biết điều-kiện sinh-tồn của đoàn-thể nông-nghiệp thì mới có tài kinh-bang tế-thế. Lang-Liêu đã có được cái sáng-kiến bánh Chưng, bánh Giầy như thế là đã có được, cái ý-thức của xã-hội nông-nghiệp, tức là ý-thức-hệ dân-tộc để quan-niệm trước khi hành-động thì mới sắp đặt và bảo-vệ trật-tự, biết người và khéo dùng " Tri nhân thiên nhiệm " của người chỉ-huy lãnh-đạo, ra lệnh hợp thời "Sử dân dĩ thời " . Như thế mới được người ta tâm phục. Có chinh-phục được lòng người thì mới điều-khiển được nhất-trí cái guồng máy chính-trị của một nước. Vì thiếu cái ý-thức-hệ ấy mà giới kẻ-sĩ lãnh-đạo thời Tự-Đức mới để cho nước mất nhà tan, cho nên Phan-Thanh-Giản phải thở dài trước khi tuẫn-tiết :

" Trời thời, Đất lợi lại người hòa ."

Đấy cũng để nhắc lại cái ý-thức-hệ Vuông Tròn hay Tam-Tài của Lang-Liêu được Vua Hùng-Vương trao cho ngôi báu, không kể con trưởng con thứ, chỉ cốt được người hiền-năng có thể thông-cảm nguyện-vọng âm-thầm của tầng lớp nông-dân để trị-vì, vì dân và cho dân vậy .

Điểm thứ ba của cái ý-thức-hệ Lạc-Việt, Vuông, Tròn, ngụ ở cặp " bánh Chưng, bánh Giầy " cổ kính là sự-kiện Lang-Liêu đã được Thần-linh báo mộng cho cái ý-thức-hệ ấy. Trong lúc bơ vơ, tứ cố vô thân chẳng biết nương tựa vào ai, lòng tuyệt-vọng chỉ còn biết cầu khẩn Tổ-tiên ngầm giúp cho phép lạ. Phép lạ ấy đã đến cho Y qua giấc mộng giữa tinh-thần với tinh-thần, không qua ý-thức cảm-giác và lý-trí. Đấy là cái biết trực-giác tâm-linh như trường-hợp Thần Đồng-Cổ đã báo mộng cho Vua Lý-Thánh-Tông sau này để đề-phòng quốc-biến vậy. Chắc hẳn Lang-Liêu có đức tin mạnh mẽ vào Thần-linh Tiên-Tổ hay vào Phật Trời mới có được cái trực-giác tâm-linh ấy :

" Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời.
Đương cơn hoạn-nạn độ người trầm luân
".

Vì cô liêu, mất mẹ từ sớm Lang-Liêu thật ở trong cảnh-ngộ bơ vơ, một mình chỉ còn nội hướng vào lòng mình mà cầu nguyện, đem hết tinh-thần chú-ý vào lời cầu-nguyện .

" Duyên lai nhất nguyên khả thông Thần ". nghĩa là : ( Cơ duyên đến thì một niệm thành tâm có thể thông-cảm với Thần-minh ) .

Lang-Liêu hết sức tin-tưởng vào sự phù-hộ của Tổ-tiên, Thần-linh hay âm-phù kẻ xấu số khốn cùng như tầng lớp nông-dân xấu số đất Việt xưa, chỉ trông vào sức phù-hộ của Trời Phật mầu-nhiệm thần-thông cứu khổ cứu nạn .

" Phúc thay cho tâm hồn chất phác, Thiên-đường dành cả cho người.
Phúc thay cho tâm-hồn hiền lành, người sẽ được cả trên mặt đất.
Phúc thay cho tâm-hồn trong sạch, người sẽ thấy Chúa Trờ
i." _ ( Thánh Kinh Tân Ước )

Chính tâm-hồn ấy là tâm-hồn của Lang-Liêu, đại-diện cho nông-dân chất-phác hiền-lành sống gần-gũi với thiên-nhiên, bởi thế nên Trời Phật, Tổ-tiên đã báo mộng cho cái ý-thức-hệ " bánh Chưng bánh Giầy " để dâng lên bàn thờ Tổ. Và nghĩ đến ngày Tết, năm mới đến năm cũ đi trong lòng Lang-Liêu lại phấn khởi với niềm tin tái tạo cuộc đời, trút hết không may về quá-khứ để sẵn sàng đón lấy tất cả sự tốt lành trong ý-nghĩ, trong lời nói cũng như trong việc làm. Đấy là hình ảnh của cặp bánh tượng-trưng đã gợi lên ngày Tết của toàn-thể dân Việt nhớ đến Tổ ( 10 - 3 ), nhớ đến nguồn-gốc con Rồng cháu Tiên vậy .

Với cái ý-thức-hệ khá đầy đủ trên đây của một nhân-bản toàn-diện giải-đáp cho con người về cả ba phương-diện : người với thiên-nhiên ; người với người trong xã-hội ; người với mình trong tâm-lý cá-nhân. Xã-hội chính-trị Việt-Nam đã lấy Xã Thôn làm cơ sở cho tổ-chức dân-chủ xã-hội nguyên-thủy mà Đình Làng là tiêu-biểu nhất, vừa là nơi thờ tự Thần-Hoàng, vừa là nơi hội-họp hội-đồng kỳ mục để bàn bạc việc kinh-tế, hành-chánh của Làng. Đấy là bằng-chứng cụ-thể cho cái tinh-thần văn-hóa, chính-trị, hợp-nhất cả Đạo ( Vja ) và Đời, siêu-nhiên với hiện-thực.

pay per click advertising

Weblinks :

 

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

 

 

free counters

Search: The Web    http://www.truclamyentu.info
un compteur pour votre site