lịch sử việt nam

Trang Chính

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Chết Bởi Trung Cộng:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam

Vietnam Human Rights - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Southeast Asia Sea:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế Về Việt Cộng và Trung cộng:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963 - 2013 :

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Thư Mục Các Trang Web - Weblinks:

 

Cây có cội, nước có nguồn. Toàn dân Việt-Nam ngàn đời ghi nhớ ân đức Quốc Tổ Hùng Vương

Southeast Asian Seas

quốc kỳ việt nam, việt nam, viet nam, vietnam, vn

southeast asia sea, biển đông, south china sea, biển nam trung hoa

Chuyên mục Southeast Asia Sea được thành lập nhằm khẳng định chủ quyền biển Đông từ hơn 10 ngàn năm của dân tộc Việt-Nam.

Từ hơn 10 ngàn năm qua, dân tộc Việt-Nam đã sống với biển, gần biển. Đây là nền văn minh chói sáng của tộc Việt.

Tình cảm gắn bó giữa biển và con người Việt Nam đã có chiều dài hàng 10 ngàn năm và tình cảm này vĩnh viễn không thể nào chia cắt được cho dù trải qua nhiều sự thay đổi của lịch sử.

Thưa quý đạo hữu, quý tôn đức, 

Sự thật về Hòa thượng Thích Đôn Hậu tình nguyện ra Bắc cũng như dẫn quân Việt cộng về Huế tàn sát dân chúng trong dịp tết Mậu Thân 1968 đã quá rõ qua việc chính bản thân thầy Đôn Hậu tự nhận qua tài liệu của giáo sư Lê Văn Hảo ghi lại v.v...

Trang thuvienhoasen.org có đăng bài như sau để che lấp sự thật: Về việc hòa thượng Thích Đôn Hậu lên núi, ra bắc trong vụ Tết Mậu Thân 1968 - H.T. Thích Đôn Hậu - Thư viện hoa sen

Bài viết bên trên chỉ nói được chưa tới phân nửa sự thật, rất đáng tiếc! 

Là người nghiên cứu, biên khảo sử Phật giáo, chúng tôi rất khát khao tìm hiểu sự thật. 

Qúy đạo hữu nào, quý chư tôn đức nào đã từng đọc qua bài viết nêu trên của thuvienhoasen.org, xin mời quý vị nên đọc bài bên dưới do thiếu tá Liên Thành cựu trưởng ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế biên tập để tìm hiểu thêm sự kiện quan trọng đã xảy ra cho Huế đau thương năm Mậu Thân 1968.

Trúc Lâm Yên Tử

***

Sự thật về tên Việt cộng Diệp-Trương-Thuần tức Thích Đôn Hậu đệ III Tăng thống Phật giáo Việt-Nam Thống-Nhất

hòa thượng thích đôn hậu, thichdonhau, phật giáo việt nam

Tấm ảnh chụp năm 1976, tại chùa Thiên Mụ. Thích Đôn Hậu, Chủ tịch Ủy ban hòa bình, thống nhất, dân chủ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam vui vẻ trò chuyện với Tổng bí thư Lê Duẩn (ngoài cùng bên phải) và đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ảnh VNExpress

Cách đây gần ba năm, vào cuối thu năm 2007, khi đặt bút viết những dòng chữ đầu tiên về các Biến Động Miền Trung từ 1966-1975, tôi đã tiên liệu rằng, rồi ra sẽ là một “biến động lớn” tại hải ngoại và quốc nội. Bởi vì, những gì tôi viết ra tuy là những sự việc đã thực sự xảy ra, những đầu mối để dẫn đến một thời điểm đen tối nhất của lịch sử Việt Nam, nhưng trong đó, có những việc liên quan đến một số nhân vật lãnh tụ Phật giáo đã dùng chiếc áo tu hành, cố đem thần quyền khống chế thế quyền. Thế quyền ở đây chính là 2 chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Các lãnh tụ Phật giáo, điển hình là Thích Đôn Hậu, đã hùa theo cộng sản, cải trang trong cái vỏ bọc tôn giáo, quyết tâm triệt hạ chính quyền Miền Nam, nhằm phục vụ tích cực cho đảng Cộng sản trong mưu đồ thôn tính toàn cõi đất nước Việt Nam. Vì tôi đưa ra những sự việc đụng chạm đến các lãnh tụ Phật giáo này, một số khác, điển hình là Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái, đã chống đối vì họ muốn ém nhẹm sự việc.

Nếu tôi dựng chuyện vu khống một ai đó cho dù là thường dân hay các bậc tu sĩ, thì lương tâm và danh dự tôi là một bản án trừng phạt nặng nhất cho chính tôi, chứ không cần đợi cho ai chứng minh là tôi sai hay vu khống cả. Vì thế, không một thế lực nào trên đời này có thể cản trở tôi nói ra sự thật. Tôi đã từng xông vào chùa Trà Am, bắt sư Thích Như Ý, em Hòa Thượng Thích Trí Thủ, sau đó đến chổ nghĩa địa cất giấu, lôi ra 6 ký lô chất nổ hợp chất C3 và 8 ngòi nổ chậm, trước sự chưởi rủa của ông Thích Như Ý rằng tôi là mật vụ Mỹ Thiệu, con dòng cháu giống đi làm du đảng đàn áp quý thầy. Thâm ý của ông ta muốn làm nao núng áp đảo tinh thần tôi. Nhưng ông Như Ý đã lầm, khi tôi đã cân nhắc hơn thiệt đúng sai, đúng là cộng sản, tôi đi đến cùng, triệt hạ thẳng tay, bất kể đó là chùa hay nhà thờ.

Núp bóng thế lực chùa hay nhà thờ để tạo sức mạnh hoạt động cộng sản gây rối chính trị và trị an xã hội hoàn toàn không có giá trị gì với tôi cả. Bằng cớ về Thích Như Ý: sau 1975, Thích Như Ý hiện nguyên hình là tên Việt Cộng nằm vùng đặc trách Tôn Giáo Vận. Sự việc này không ai có thể chối cãi. Các anh em CSQG cùng với tôi đến lục soát chùa Trà Am hiện nay còn sống tại Hoa Kỳ. Dân chúng trong vùng gần chùa Trà Am chứng kiến việc tôi bắt Thích Như Ý còn đó. Những nhân vật mà tôi đề cập trong Biến Động Miền Trung đó là: Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Như Ý, Chánh Trực v.v. những người đã được Phật giáo đồ miền trung đặc biệt là Thừa Thiên-Huế kính trọng tôn sùng xem như là các bậc thánh linh trong đời sống, nay bỗng chốc bị lột trần ra là đảng viên cộng sản, là cán bộ Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo, lợi dụng tôn giáo để phỉnh gạt tín đồ để thi hành các công tác mà cơ quan tình báo Chiến Lược Cộng Sản Bắc Việt giao phó.

Vì lẽ đó, “Biến Động Miền Trung” là một sự thật làm bàng hoàng, đau đớn và gây xúc động cho nhiều người, đặc biệt là những người quốc gia chân chính không chấp nhận thần quyền lấn át thế quyền. Ngược lại, “Biến Động Miền Trung” cũng đã tạo một cơn chấn động bởi một số người hiện nay còn sót lại trong GHPGVNTN và tay sai không những không chịu chấp nhận sự thật, lại còn ráng bóp méo, cho rằng Biến Động Miền Trung ra đời là để bôi nhọ đánh phá Phật giáo, gây chia rẽ tôn giáo chia rẽ cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Tôi sợ những dư luận rẻ tiền này không? Thưa không!

Quá trắng trợn, họ đã đưa ra những lời lẽ dối trá và vô căn cứ rằng ông Thích Đôn Hậu, thuộc hàng lãnh đạo Phật giáo có tên tuổi, đã bị bọn Việt cộng bắt đưa ra Bắc trong Tết Mậu Thân 1968. Đây là cuộc ra đi vì bị bắt buộc bởi một tiểu đội quân cộng sản Bắc Việt dí súng AK vào người ông ta, và rằng ông ta không bao giờ thỏa hiệp với chính quyền Cộng Sản Miền Bắc về cuộc ra đi này cả. Những lối nói khơi khơi không có sự kiện để chứng minh như thế chẳng bao giờ có chút giá trị nào đối với hệ thống luật pháp của bất cứ quốc gia nào, kể cả tụi cộng sản.

Hôm nay, tôi xin trình bày một số dữ kiện quan trọng để chứng minh rằng việc Thích Đôn Hậu tham gia vào Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam (LMLLDTCDHBVN) và ra Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) vào năm 1968 là hoàn toàn do Thích Đôn Hậu tự nguyện.

Dữ kiện thứ nhất là bức thư của Thích Đôn Hậu với tựa đề “Tại sao tôi gia nhập Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam” gởi cho “đồng bào miền Nam” vào ngày 20 tháng 5 năm 1968. Trong bức thư này, Thích Đôn Hậu nói rõ quyết tâm giật sập các chính phủ VNCH. Đồng thời Thích Đôn Hậu kêu gọi Phật tử miền Nam Việt nam đứng lên để “chiến thắng tụi xâm lược Mỹ”. Cuối cùng, đương sự thừa nhận bản thân đương sự đã cương quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN [1].

Bức thư này nằm trong cuốn hồi ký của Lê Văn Hảo, viết bằng Pháp ngữ, trích một số tài liệu liên quan đến Đôn Hậu trong Tập san Huế Passé et Présent số 37 trang 235-237 do Etudes Vietnamiennes của Nguyễn Khắc Viện xuất bản năm 1973.

Thích Đôn Hậu đã mở đầu bức thư như sau:

Tại sao tôi gia nhập Liên Minh Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam

Kính gửi tất cả đồng bào miền Nam Việt Nam,

Đồng bào thân mến, 

Nghe tin tôi gia nhập LMLLDTDCHBVN, tín đồ Phật giáo và những người ngoại giáo chắc là sẽ tự hỏi tại sao một người già lão như tôi, tu hành đã bao nhiêu năm, mà thay vì hiến thân trọn vẹn cho đạo giáo lại đi làm chính trị?

Phần tiếp theo, Thích Đôn Hậu tự trả lời bằng cách lên giọng vu khống hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã áp dụng một chính sách đàn áp Phật giáo ngày càng khốc liệt (?!).

Phần cuối cùng, Thích Đôn Hậu tuyên bố Thích Đôn Hậu “cương quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN” và “tha thiết kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước, đặc biệt là các Phật tử và những dân cư thành thị miền nam Việt Nam xiết chặt hàng ngũ trong LMLLDTDCHBVN, tăng cường sức mạnh, đứng lên để chiến thắng tụi xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, chiếm lại độc lập, tự do và hòa bình đích thực” (?!).

Etudes Vietnamiennes của Nguyễn Khắc Viện xuất bản năm 1973

Bức thư của Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch LMLLDTDCHBVN, 20-5-1968

Dữ kiện thứ hai là trích dẫn nguyên văn phát biểu tại phiên họp Quốc hội kỳ 2 (1976) của ông Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu. Thích Đôn Hậu đã khoe công với Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng CSVN, trong dịp Thích Đôn Hậu tham dự phiên họp Quốc hội kỳ 2 (1976) này:

“Sau khi tôi ra miền Bắc năm 1968, thì vị mà tôi tiếp xúc đầu tiên là Hồ Chủ tịch."

“Khi gặp Hồ Chủ tịch, thì câu nói mà có lẽ là câu nói chính của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch 'tán dương Phật giáo. Tán dương việc tranh đấu, phản đối các chánh quyền tay sai do Mỹ tạo nên ở miền nam Việt Nam.' Rồi Hồ Chủ tịch tán dương cuộc tranh đấu của Phật giáo là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức. 'Tôi rất là cảm kích về phong trào tranh đấu đó là một sự hi sinh của PG. Thay mặt Chánh Phủ Liên Tôn tôi thành thật cảm ơn và đặc biệt tôi rất hoan nghênh những việc tranh đấu đó.' Đại ý như vậy. Khi đó có Thủ Tướng.

Thì vài ngày sau, trong buổi chiêu đãi của Mặt Trận Tổ Quốc do cụ Tôn Đức Thắng chủ trì, buổi chiêu đãi của phủ Thủ Tướng do Thủ Tướng chủ trì, buổi chiêu đãi của Trung Ương Đảng do cụ Lê Duẩn chủ trì thì các vị đều tán dương Phật giáo, đại khái như Hồ Chủ tịch đã nói.”[2]

Dữ kiện thứ ba là trích dẫn nguyên văn phát biểu tại chùa Linh Mụ ngày 08 tháng 12 năm 1978 của ông Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu[3]:

“Chắc quý vị đã biết một cách rõ ràng là Phật giáo chúng tôi luôn luôn gắn liền với dân tộc. Phật giáo với dân tộc gắn liền với nhau như môi với răng. Mà Phật giáo và dân tộc vì gắn liền với nhau cho nên khi ra Bắc, tôi được các vị cho biết: những thời qua, các vị cách mạng tiền bối, kể cả Hồ Chủ tịch và hiện tại các vị như là Thủ tướng Phạm Văn Đồng .v.v... thì đã ở chùa, ở chùa để mà tiếp tục làm cách mạng. Thì trong khi đó nếu Phật giáo không phải là yêu nước thì trong khi mà các Ngài ở chùa đó, nếu các nhà sư mà xấu, thì chắc là các Ngài cũng không còn đến ngày nay để lãnh đạo. Và từ đó về sau, trãi qua những cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, các vị cũng đã biết rằng nhà chùa, nhất là nhà chùa là những nơi giúp đỡ, chở che cho cán bộ, bộ đội đến như thế nào! Và ngay cả Tết Mậu Thân, dù cán bộ, bộ đội về nhiều như thế, về thành phố Huế nhiều như vậy, thì về ở đâu, không phải là ở nhà đạo khác mà chỉ là ở nhà Phật tử, mà nếu như Phật tử mà họ xấu, họ không có tinh thần yêu nước, thì khó mà thực hiện được cuộc cách mạng vùng lên trong Tết Mậu Thân.

Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng. Vì gắn liền với cách mạng cho nên khi nghe đến giải phóng chỗ nào thì người Phật giáo hoan nghênh lắm. Mà nhất là khi nghe giải phóng đến Sài Gòn, thì họ phấn khởi vô cùng, hoan nghênh hết sức.

Từ đó thì cán bộ, bộ đội về khắp tất cả, từ nông thôn cho đến nơi thành thị, mà ở đâu có bóng của các vị, của anh em cán bộ, bộ đội, thì đồng bào, mà trong đó đa số là Phật tử, thấy các anh thì họ hết sức là hoan nghênh, vui vẻ ra đón chào. Người thì bắt tay, người thì vuốt vai, người thì cầm áo, người thì là ngó mà rất hoan nghênh, cứ ngó mãi mãi, cười mãi. Họ thấy các anh em, họ nhìn các anh em như là anh em, con cháu chú bác gì của họ mà đi xa, đi làm nhiệm vụ thành công mà về. Từ đó có cái gì họ cũng đem ra mời ăn, thành ra đoàn kết, mà còn là thương yêu nữa. Chẳng những thương yêu mà còn là kính nể nữa, kính trọng nữa. Bởi vì họ thấy anh em là những người có công với cách mạng, có công trong cuộc kháng chiến, là những người nếm mật nằm gai đem lại độc lập, hòa bình cho quê hương….”

Ba dữ kiện nêu trên, đều do chính đương sự Thích Đôn Hậu, một đảng viên Cộng sản cấp trung ương và là Đệ III Tăng Thống của GHPGVNTN, viết và tự thuật lại hoạt động cộng sản của Thích Đôn Hậu và GHPGVNTN đã góp công lớn trong việc lật đổ VNCH và vốn từng được Hồ Chí Minh trực tiếp 'cảm ơn' và 'hoan nghênh' vào năm 1968 khi Thích Đôn Hậu ra Bắc với “bác và đảng”.

Trở lại câu nói của ông Thích Đôn Hậu:Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng.” Như  vậy, ai là người nói rằng Phật giáo gắn liền với cộng sản?

Tôi phỉ báng Phật giáo hay ông Thích Đôn Hậu phỉ báng Phật giáo?

Xin một lời công đạo cho lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế.

Tôi xin nhắc lại câu nói thường tình cửa miệng: Không ai chịu cha ăn cướp!

Thích Đôn Hậu không thể chối cãi với các mật báo viên của ty Cảnh Sát Quốc Gia /TT-Huế là đương sự không gặp gỡ Hoàng Kim Loan như cơm bữa tại chùa Linh Mụ.

Và cuối cùng, Ôn Linh Mụ khó có thể đối chất với Trung Úy Đoàn Lang, Trung Úy Phan Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, và với Trưởng Ty CSQG Liên Thành mà tất cả hiện đang ngụ tại Hoa Kỳ, nếu như Ôn còn sống.

Trả lại sự thật cho lịch sử là bổn phận của tất cả mọi công dân đã vì duyên nghiệp mà biết được những oan khiên sai trái của những âm mưu chính trị đen tối. Tôi, Liên Thành, vì chức vụ, bổn phận, và trách nhiệm mà biết được những điều đó, thì tôi không có quyền im lặng, vì trách nhiệm đối với đất nước và lịch sử là bổn phận tối thượng. Đó là trách nhiệm thiêng liêng trên hết mọi lãnh vực kể cả lãnh vực tôn giáo. Không ai có thể nhân danh lãnh đạo tôn giáo, nhân danh tôn giáo để che đậy sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam này.

Tôn giáo là tôn giáo. Phật giáo là Phật giáo. Lãnh đạo Phật giáo là lãnh đạo Phật giáo. Họ là những người đi rao giảng lời Phật. Họ không là Phật. Họ cũng chẳng là Phật giáo.

Điều này quá rõ và quá đơn giản, nhưng vẫn còn có một số người cố bám víu trộn lẫn các phạm trù này lại, cho rằng quý vị đó là Phật giáo, để đánh lận dư luận, mưu đồ lợi dụng sức mạnh tôn giáo để thực hiện những mưu toan chính trị không ngay thẳng.

Cuối cùng, với trách nhiệm là một Phật tử, tôi phải đặt đức công bằng lên trên tất cả những tai tiếng của các lãnh đạo tôn giáo của đạo mình, mà ngay chính cá nhân tôi, trong chỗ riêng tư, phần nào cũng muốn giấu bớt, vì xấu hổ.

***

Còn nhớ trong ngày mồng hai, mồng ba Tết Mậu Thân 1968, tại  Quận I và Quận II Thị xã Huế, chính đích thân Nguyễn Đắc Xuân và toán An Ninh Bảo Vệ Khu Phố của y đã đi từng nhà một kêu gọi “dân chúng treo cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình của Ôn lên!” (Ôn Đôn Hậu), nhà nào không có thì lấy cờ Phật giáo treo lên!”. Câu nói này của Nguyễn Đắc Xuân không thể chối.

Nhưng uổng công cho Nguyễn Đắc Xuân, dân chúng chẳng ai hương ứng cả. Cờ của dân chúng Huế là cờ vàng 3 sọc đỏ. Còn “Cờ của Ôn” là của riêng Ôn và đồng bọn, không phải là cờ vàng 3 sọc đỏ, mà cờ của Ôn thực chất là cờ đỏ sao vàng được ngụy trang thêm 2 mảnh màu xanh ở trên và dưới cái cờ của Cộng Sản Việt Nam, tên của cái tội ác này là cờ Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.

Lá cờ này của ông Thích Đôn Hậu đã được treo trên Kỳ Đài Phú Văn Lâu trong 23 ngày. Hơn 170 chiến sĩ TQLC ra đi, chỉ còn lại 67 người để dẹp bỏ lá cờ máu này, dành lại Kỳ Đài cho lá cờ vàng tổ quốc thân yêu

Nguyễn Đắc Xuân cũng đã xác nhận trong nhiều bài viết từ sau năm 1975 khi y từ Miền Bắc trở về rằng ông Đôn Hậu hoạt động cộng sản đồng hội đồng thuyền với y. Hắn cũng đã xác nhận có lá cờ này qua chuyện “mọi người treo cờ của Ôn lên, hay lấy cờ Phật giáo treo lên!” trong cuốn hồi ký của chính hắn.

Trong những ngày binh lửa tại Huế và rồi một thời gian sau đó đồng bào Phật tử rất lo âu không hiểu “Ôn” Đôn Hậu ở đâu? Ôn Đôn Hậu ở đâu? Phật giáo đồ Huế đang tìm kiếm hỏi thăm tin tức, nhưng chẳng ai biết “Ôn ở mô?”, thì bỗng nhiên, thật ngơ ngác bàng hoàng khi nghe lời kêu gọi của “Ôn” trên đài phát thanh Hà Nội gởi Phật giáo đồ và đồng bào Huế nội dung là: Hãy đoàn kết đứng dậy chống lại chính phủ Miền Nam, chống lại Ngụy quyền, Ngụy quân và Đế quốc Mỹ.

Ôn theo Việt Cộng, để lại Huế thành phố Huế tan hoang!... Ôn ơi là Ôn!

Chính là ôn chớ không ai khác! Giọng nói chính là của ôn Linh Mụ chớ không ai khác!

Huế điêu tàn đổ nát và đầy dẫy xác người dưới lá cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình

Kế hoạch “Tổng Nổi Dậy” bị thất bại, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam cho lệnh  thi hành “Biện Pháp Bạo Lực Cách Mạng” hay “Biện Pháp Đỏ” để răn đe dân chúng Huế. Kết quả của “Biện Pháp Đỏ” dưới danh nghĩa Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình là 5327 thường dân vô tội bị thảm sát bằng cách cột thành chùm đập đầu chôn sống, và 1200 người bị dẫn đi mất tích.

Sau 26 ngày chiếm Huế, lực lượng quân sự lẫn chính trị của Việt Cộng thảm bại, rút lui trước sự phản công ồ ạt của Quân Lực VNCH và Đồng Minh, nhưng bọn cộng sản Việt Nam và lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, con đẻ của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, con nuôi của các ông Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo, đã để lại cho Thành phố Huế cho đồng bào một nghĩa trang lớn với những tang tóc đau thương oan nghiệt ngút tận trời xanh.

Huế sau Mậu Thân là một giải khăn tang trắng từ thành phố lên đến Ba Đồn, nơi mồ chôn tập thể của 5327 thường dân vô tội bị sát hại bởi bản chất sát máu và lòng hận thù của những người cộng sản, và của những tên nằm vùng người Huế trong lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình như: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phan Duy Nhân.

Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thị Đoan Trinh, cha con thuốc bắc Thiên Tường và còn cả hằng trăm, hàng ngàn những cơ sở nội thành Việt Cộng khác, mà đại đa số chúng là lực lượng nòng cốt của cộng sản trong vụ tranh đấu năm 1966 của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, thoát ly lên mật khu khi cuộc tranh đấu thất bại, nay theo chân cộng quân trở lại Huế, trút mối hận xưa lên đầu người dân vô tội.

Lễ Cải Táng Nạn Nhân Bị Việt Cộng Thảm Sát

Các thành viên của ông Thích Đôn Hậu trong LMDTCDHB đã trói cập cánh, rồi giết như giết rắn độc như thế này...

Đến tháng 5 năm 1972 khi chúng tôi bắt được tên Trung Tá VC Hoàng Kim Loan thì các giả thuyết “Ôn Đôn Hậu bị Việt Cộng bắt đi ra Bắc”, hay “Ôn tình nguyện ra đi”, đã được xác quyết.

Lời khai của Hoàng Kim Loan về chuyện này đã được thẩm tra đi thẩm tra lại rất kỹ lưỡng. Trưởng Trung Tâm Thẩm Vấn, Trung Úy Hồ Lang, phó Trung Tâm Thẩm Vấn, Trung Úy Nguyễn Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, phó đặc biệt, và tôi thay phiên nhau phối hợp điều tra. Sau đó, vì sự việc quá quan trọng và quá lớn liên quan đến các nhân vật trọng yếu trong chính phủ VNCH, tôi yêu cầu phía tình báo Hoa Kỳ CIA giúp kiểm chứng thêm bằng máy đo sự thật. Hồ sơ dày cộm này bao gồm khẩu cung lẫn kết quả của máy đo sự thật được chuyển y về trung ương Sài Gòn, đích thân Thiếu Tá Trương Công Ân bay vào Sài Gòn trình Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình Tư lệnh CSQG, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, kiêm Tổng Thư Ký Hội Đồng An Ninh Tình Báo Quốc Gia toàn bộ hồ sơ nội vụ. Thiếu Tá Trương Công Ân hiện đang sống tại Bolsa, California.

Các nhân chứng nêu trên đã đích thân lấy khẩu cung Hoàng Kim Loan bằng những kỹ thuật thẩm vấn điêu luyện nhà nghề, cũng như phối kiểm các bằng chứng, các sự kiện liên quan mà chúng tôi theo dõi đã lâu trong vụ án nằm vùng quá lớn này, tất cả các anh em đó hiện đang sống tại Hoa Kỳ, tiểu bang Kansas và California, nếu ai muốn đối chất, tôi sẽ cung cấp số phone của họ, để 3 mặt một lời để công khai minh bạch hóa một sự thật đã bị cố tình che dấu.

Một số người vì muốn chống đối cuốn sách Biến Động Miền Trung nên nói một cách vu vơ vô căn cứ rằng nhân vật Hoàng Kim Loan là nhân vật không có thật. Xin hỏi các vị đó là ai? Các vị đó có phải là những viên chức cao cấp trong ngành tình báo của VNCH có liên quan đến vụ án của chiến dịch Bình Minh để có thẩm quyền phủ nhận về lý lịch và nhân vật Hoàng Kim Loan? Và cũng xin hai vị liên lạc với tôi để phối kiểm với nhiều nhân viên tình báo VNCH có thẩm quyền khác đã từng thẩm vấn Hoàng Kim Loan, thuộc vùng I, ngoài tôi ra. Bởi vì, vụ Hoàng Kim Loan là một vụ án nằm vùng lớn nhất tại Huế, có thể nói vụ án nằm vùng lớn nhất và nguy hiểm nhất tại Miền Nam, nên ngoài BCH/CSQG/TT-HUẾ và tôi ra, còn có nhiều giới chức thẩm quyền khác, không thuộc ty CSQG TT/Huế thẩm vấn y, chẳng hạn Trung Tá Hồ Anh Triết lúc đó là Phó Đặc Biệt Vùng I, sau này làm trưởng ty CSQG tỉnh Quảng Ngãi. Ông đã từng thẩm vấn Hoàng Kim Loan nhiều ngày trước khi chuyển y về trung ương Sài Gòn. Trung Tá Hồ Anh Triết hiện cư ngụ tại Houston, Texas.

Tiểu sử Hoàng Kim Loan:

Hoàng Kim Loan sinh 1920 tại xã Phong An, Quận Phong Điền Tỉnh Thừa Thiên. Tham gia phong trào Việt Minh tại xã Phong An, Phong Điền Thừa Thiên.

Tháng 10 năm 1944: được kết nạp vào đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 6/1945: được đảng phân công vào thành phố Huế, hoạt động trong phong trào học sinh Huế. Đã cùng với Tố Hữu tham gia tổ chức cuộc biểu tình trước cửa Ngọ Môn yêu cầu Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị.

1946, Cán bộ cao cấp thuộc Tổng Cục Quân Báo. Trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Địa bàn họat động thành phố Huế. Trách nhiệm: xây dựng cơ sở bí mật.

1954, Đình chiến 1954, với chức vụ thành ủy viên Thành Ủy Huế. Trưởng cơ quan Điệp Báo thành phố Huế, phụ trách Trí Vận và Tôn Giáo Vận. Đương sự được chỉ thị bí mật ở lại Huế để hoạt động.

1959, được phong quân hàm Trung Tá.

1963-1966 hoạt động chặt chẽ với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiên Siêu, Chánh Trực trong công tác phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh lật đổ Đệ I Cộng Hòa, và vụ phản loạn năm 1966, với chiêu thức Bàn Thờ Phật Xuống Đường tại Huế.

Mậu Thân 1968, phụ trách tổng khởi nghĩa tại Huế. Phụ trách thành lập Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình, đồng thời cũng phụ trách tổ chức chính quyền cách mạng tại Huế.

1969 giữ chức Thường Vụ Thành Ủy Huế.

1969 giữ chức vụ trưởng cơ quan Điệp Báo Quân Khu Trị Thiên Huế.

Tháng 5/1972 bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế bắt sống tại Vỹ Dạ, Thừa Thiên-Huế.

Theo Hoàng Kim Loan khai thì ông Thích Đôn Hậu là cơ sở tôn giáo vận của y từ trước 1963. Trong vụ lật đổ Đệ I Cộng Hòa và vụ phản loạn vào tháng 6/1966 của ông Trí Quang tại miền trung đặc biệt là tại Huế, thì y được lệnh của Tổng Cục Tình Báo chỉ thị phối hợp làm việc chặt chẽ với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Chánh Trực thực hiện hai công tác này.

Ngoài ra, để kiểm chứng lời báo cáo của mật báo viên của ty CSQG TT/Huế cài tại chùa Linh Mụ, chúng tôi có thẩm tra Hoàng Kim Loan về quan hệ tình ái giữa ông Đôn Hậu và bà Tuần Chi, Hoàng Kim Loan xác nhận là có. Và chúng tôi cũng điều tra ngược lại, hỏi Hoàng Kim Loan rằng phải chăng đây là chiêu “mỹ nhân kế” có tính toán mà các anh sử dụng để điều khiển và khống chế đối tượng? Hoàng Kim Loan cũng không ngần ngại chấp nhận đó là một trong những chiến thuật của cộng sản.

Theo lời khai của Hoàng Kim Loan thì việc thoát ly của ông Đôn Hậu ra Bắc không là một chuyện tình cờ hay ép buộc gì cả. Hoàng Kim Loan đã trình bày rất kỷ lý do sự cần thiết của ông Đôn Hậu cho sách lược tuyên truyền quốc tế của cộng sản, theo đó, ông Đôn Hậu thật sự là một vũ khí chính trị lợi hại của Đảng. Ý thức được tầm quan trọng của mình đối với sách lược chống Mỹ Thiệu của Đảng nên ông Đôn Hậu đã đồng ý ra Bắc cùng với một số cơ sở trí vận tôn giáo vận tại Huế. Cùng đi, dĩ nhiên có bà Tuần Chi. Với số nhân sự thập loại thành phần gốc Miền Nam chính phủ Cộng Sản Hà Nội đã thành lập một cái lẩu thập cẩm có tên “phái đoàn đại diện cho dân chúng Miền Namxuất ngoại  tuyên truyền với thế giới rằng cho cuộc chiến của “nhân dân Miền Nam” là cuộc chiến mà Nhân Dân Miền Nam tự động nổi dậy chống bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy đàn áp tôn giáo, đàn áp trí thức đối lập, đàn áp sinh viên học sinh, đàn áp dân chúng. Rằng chính quyền Miền Nam là một chính quyền phi nghĩa, kiểu Diệm mà không Diệm!

Hành động như vậy, toàn bộ nhóm nằm vùng Miền Nam gốc Huế thi hành nhiệm vụ quốc tế này kể cả ông Đôn Hậu, đã bất chấp đức công bằng, chà đạp lên sự kiện là cả hai chính quyền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đều do đa số dân bầu ra, ngoại trừ một thiểu số chống đối như họ, dĩ nhiên, bởi vì chính họ là cộng sản nằm vùng! Bất cứ ai là người quốc gia mà bọn này chẳng chống trừ phi đó là  bọn cộng sản giả dạng nằm vùng như chúng thì chúng ủng hộ thôi. Tuy nhiên cho dù là các người này nguyền rủa chính quyền Miền Nam, nhưng họ phải chấp nhận rằng 2 chính quyền VNCH là chính quyền hợp pháp được đa số dân chúng tin nhiệm và giao phó trách nhiệm điều hành quốc gia. Dân chúng Miền Nam không giao quyền điều hành quốc gia cho ông Đôn Hậu, Trí Quang. Họ đã phản loạn đi rêu rao với quốc tế là chính quyền Miền Nam là chính quyền phi nghĩa, như vậy là họ đã chà đạp lên những lá phiếu của đa số dân chúng tín nhiệm bầu chọn chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Như vậy, chiếu theo luật pháp các nước dân chủ, những kẻ gọi là phong trào Phật giáo Tranh Đấu mà thực chất là cộng sản lãnh đạo giật dây từ xa bao gồm cả các ông Đôn Hậu, Trí Quang đã chà đạp lên kết quả 2 cuộc bầu cử, vi phạm luật pháp quốc gia, phản loạn theo địch.

Những thành phần đại diện trí thức, tôn giáo phản loạn được tuyển chọn rời Huế ra Bắc gồm có:

1- Lê Văn Hảo

Giáo sư nhân Chủng Học thuộc viện Đại Học Huế.

Chủ Tịch lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.

Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế (chính quyền do VC thành lập trong thời gian Tết Mậu Thân tại Huế).

2- Ông Thích Đôn Hậu

Chánh Đại Diện Phật giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh (Miền Trung), phó Chủ Tịch Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Lực lượng này là thế lực chính trị chính yếu của bọn cộng sản sử dụng trong Tết Mậu Thân 1968.

3- Bà Đào thị Xuân Yến (bà Tuần Chi)

Nguyên hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế, phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế.

4- Tôn Thất Dương Tiềm - Giáo sư trung học

5- Nguyễn Thúc Tuân giáo sư

6- Nguyễn Đóa, giám thị trường trung học, cha ruột của nữ đồ tể Nguyễn Thị Đoan Trinh

Có thể tóm tắt thân thế và sự nghiệp của ông Thích Đôn Hậu như sau:

Ông tên thật là Diệp Trương Thuần.

Sinh ngày 16-2-1905 tức ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ.

Sinh quán tại làng Xuân An, tổng An Điền, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Thân phụ: Diệp Văn Kỷ, là một lương y. Thân mẫu: Bà Nguyễn Thị Cựu.

Xuất gia ngày 19 tháng 6 năm 1923 tức là năm Quý Hợi tại Chùa Tây Thiên, Huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên. Lúc ấy ông 18 tuổi, sư phụ là ngài Tâm Tịnh.

- Năm 1945 nhận chức trụ trì chùa Linh Mụ.

- Năm 1963 đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào tranh đấu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

- Năm 1964, Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, ông Đôn Hậu được cử làm Chánh Đại Diện Miền Vạn Hạnh.

- Mậu Thân 1968, theo đề cử của Thành Ủy Viên Thành ủy Việt Cộng Hoàng Kim Loan, ông Đôn Hậu được cử vào Chức Vụ Phó Chủ Tịch Lực Luợng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình tại Huế.

- Tháng 1/1968 tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thoát ly lên mật khu và sau đó ra Hà Nội.

- Tại Hà Nội Ông Đôn Hậu được đề cử phó trưởng đoàn đại diện cho thành phần trí thức, tôn giáo, “quần chúng Miền Nam yêu nước” xuất ngoại tuyên truyền cho cuộc chiến xâm lăng của Hà Nội tại Miền Nam Việt Nam, tuyên truyền rằng chính phủ VNCH là một chính phủ đàn áp Phật giáo đàn áp đối lập đàn áp nhân dân.

- Tháng 6 năm 1968 Ủy viên Hội Đồng Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam của Việt Cộng.

- 1970 Ủy Viên thường trực Ban Chấp Hành Hội Phật giáo Á Châu vì Hòa Bình, một tổ chức của cộng sản.

- 1976 Đắc cử Đại biểu Quốc Hội Khóa VI nước cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

- Cũng trong năm 1976 giữ chức vụ Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Mộng của ông Đôn Hậu, phải chăng là mộng sau khi thôn tính miền Nam xong, bọn chúng sẽ để cho ông làm Đệ Nhất Tăng Thống toàn cõi từ nam ra bắc, và để cho ông lập Giáo Hội theo cách riêng của ông. Nhưng ông đã lầm, mọi sự đều phải có sự chỉ đạo của Đảng, người của Đảng phải lãnh đạo giáo hội, đó cũng là chân lý và nguyên tắc hoạt động của cộng sản. Như thế, sự cống hiến cho Cách Mạng của ông Đôn Hậu kể như trắng tay vì thế chính ông đã hiểu sự cay đắng của kẻ bị lường gạt và nói theo danh từ nhà Phật, “Ôn đã ngộ”. Nhưng đã muộn, hậu quả việc làm của ông cũng như của những kẻ hoạt động cộng sản đã đem đến thảm họa quá lớn cho đất nước. Do đó, ông có thể nhận được sự tha thứ của một số người rộng lòng kính yêu quý thầy, cho dù quý thầy có làm cộng sản thì cũng không sao vẫn cứ tôn thờ quý thầy. Nhưng ông khó mà nhận được sự tha thứ của lịch sử và của đa số dân chúng Việt Nam. Ông Đôn Hậu đã hoạt động cộng sản có nghĩa là ông Đôn Hậu đã góp tay tạo nên cái bất hạnh của dân tộc này. Ông không thể dùng chuyện chính quyền VNCH đàn áp Phật giáo để rước cộng sản vào Miền Nam, để đạt mục đích chúng sẽ cho ông và Giáo Hội riêng của ông có nhiều quyền hành hơn, ông đã xem giáo hội của ông trên cả quyền lợi và vận mệnh dân tộc. Là một Phật tử, tôi biết rằng Phật không bao giờ muốn được vinh danh bằng cách phải đòi hỏi quyền hành giáo hội thế tục. Ông tự lập một nhóm Việt Cộng Nằm Vùng từ trước 1963 để chống lại chính phủ VNCH và đã bị gậy ông đập lưng ông. Có câu thân lừa ưa nặng là vậy.

Những hành động hợp tác với Cộng Sản của ông Đôn Hậu trước năm 1975 đều đóng góp vào việc làm tan tành nền Cộng Hòa đưa đến thảm họa cộng sản cho đất nước dân tộc và nguy cơ mất nước sau ngày 30/4/1975. 

Ông Đôn Hậu phải chịu trách nhiệm những gì mình đã làm. Giá như ông biết cộng sản là tội ác, là thảm họa cho nhân loại từ cuối thập niên 1950 như hầu hết những người dân bình thường Miền Nam không tu hành gì cả đều biết, thì đỡ khổ cho đất nước biết bao! Chiếc áo tu hành của ông đã làm cho biết bao nhiêu tín đồ nghe ông mà đi theo cộng sản. Bao nhiêu người nghe theo ông và Trí Quang phá hoại chính quyền VNCH? Bao nhiêu người, chúng tôi không có con số, nhưng chắc chắn là không ít, và quyền lực vô hình của tôn giáo được nhóm người đó sử dụng đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và liên tục uy hiếp nền Đệ Nhị Cộng Hòa.

Lãnh thổ mất, Hải Đảo mất, biển mất, nhân quyền mất và cuối cùng là đất nước sẽ bị mất vào tay Tàu Cộng, lỗi tại ai chúng ta đã biết. Nhưng số người lãnh đạo tôn giáo thấy được lỗi lầm của những kẻ mượn chiếc áo cà sa để hoạt động cộng sản, làm điêu đứng tiền đồ dân tộc, quả là quá ít và chắc chắn không có ông Đôn Hậu trong đó.

Khi tấn công và chiếm Huế, cộng sản đã sử dụng 10,000 ngàn quân phục vụ dưới ngọn cờ duy nhất đó là cờ của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ được treo tại Kỳ Đài Ngọ Môn trong suốt 26 ngày tàn sát sinh linh vô tội, tức là cờ của ông Thích Đôn Hậu và ông Lê Văn Hảo.

Và nữa, đại đa số những tay sát nhân tàn bạo giết hại đồng bào Huế như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Nguyễn thị Đoan Trinh, và nhiều nhiều nữa, tất cả bọn họ đều là tay chân quan trọng của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình của ông Lê Văn Hảo và ông Thích Đôn Hậu! Nhóm tội ác này đã giết quá nhiều dân Huế, vậy theo lẽ công bình, là Chủ Soái và Phó Chủ Soái của đám sát nhân nầy, hai ông Lê Văn Hảo và Thích Đôn Hậu về cả ba phương diện, pháp lý, đạo đức, và lương tâm, có chịu một phần trách nhiệm về cái chết của 5327 thường dân vô tội bị thảm sát, và 1200 người bị mất tích hay không? Hay chỉ đơn giản đổ thừa hết cho cộng sản và cho sự thiếu sót trách  nhiệm của chính quyền VNCH?

Nếu như  những ai đó trả lời “không” thì tôi nghĩ tôi và công luận chẳng còn gì để hỏi những kẻ đó nữa.

Còn nếu trả lời là: “có”, vậy thì câu hỏi đặt ra là nên làm gì để trả lại Công Bằng và Công Lý cho nạn nhân vô tội đã bị người của ông Lê Văn Hảo và Thích Đôn Hậu trong lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình sát hại?

Tóm lại, thứ nhất, cũng là bằng chứng quan trọng nhất, qua theo dõi Hoàng Kim Loan, chúng tôi đã cài người vào chùa Linh Mụ và biết chính xác ông Thích Đôn Hậu cùng hoạt động chung với tên sĩ quan tình báo nguy hiểm này, và lần ra các đầu mối hoạt động của 2 đương sự Hoàng Kim Loan và Thích Đôn Hậu. Các nhân chứng của việc điều tra này hiện đang sống tại Hoa Kỳ.

Thứ hai, không lâu sau ngày 30/4 năm 1975, ông Thích Đôn Hậu đã tự nhìn nhận là có hoạt động cộng sản trong bài viết “Ba Lần Được Gặp Bác Hồ” của chính ông đăng trong “tác phẩm” “Bác Hồ Trong Lòng Dân Huế”, đó là một chứng minh. Rồi việc ông làm Đại Biểu Quốc Hội Cộng Sản cũng là một chứng minh. Việc đám tang ông được các nhân vật chóp bu của Đảng Cộng Sản đến tham dự và gởi vòng hoa viếng là một chứng minh nữa. Hơn cả là chính Diệp Trương Thuần Thích Đôn Hậu đã xác nhận ông ta là cộng sản, hoạt động đắc lực cho cộng sản, qua bức thư và những lời tự thuật trích từ cuốn băng ghi âm như trên đã trình bày.

Thứ ba, các nhân vật Miền Nam hoạt động cộng sản như Đào Thị Xuân Yến, Đỗ Trung Hiếu, và đồ tể Nguyễn Đắc Xuân, qua nhiều bài viết, đã xác nhận ông Thích Đôn Hậu là cộng sản cùng hoạt động với họ.

Kết luận như đinh đóng cột của BCH CSQG/TT-HUẾ và cá nhân tôi từ trước 1975 cho đến bây giờ vẫn là: ông Đôn Hậu là cộng sản. Chuyện đơn giản như 2 cộng 2 là bốn.

Ông Thích Đôn Hậu hoạt động cho Cộng Sản trong nhiệm vụ mà Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản giao phó, qua tên Trung Tá điệp viên Cộng Sản Hoàng Kim Loan, nhiệm vụ được giao cho là Tôn Giáo Vận. Thực chất của Tôn Giáo Vận là gì? Đó là: Lợi dụng màu áo tu hành, lợi dụng chức vụ, lợi dụng lòng tôn kính của Phật tử để hoạt động theo chỉ thị của đảng cộng sản mà thôi.

Và vì thế, sự ra đi của ông Đôn Hậu trong Mậu Thân 1968 không là ép buộc, và ông Đôn Hâu đồng ý đi ra Bắc để lãnh nhận nhiệm vụ quan trọng hơn: là xuất ngoại với tư cách là đại diện cho quần chúng Miền Nam tuyên truyền chính nghĩa cho cuộc xâm lăng của Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và từ đó xin viện trợ, chiến tranh phí cho Cộng Sản Hà nội, đồng thời tạo lý do cho bọn nhà báo phản chiến thiên cộng phương tây tấn công lên án chính quyền VNCH là chính quyền phi nghĩa, là chính quyền đàn áp tôn giáo. Còn ai có thể có uy tín hơn, ép phê hơn là một nhà sư có tiếng của Miền Nam tố cáo chính phủ Miền Nam đàn áp tôn giáo? Dư luận lên cao có lợi cho cộng sản đến độ đưa đến việc bọn chính trị gia phản chiến được bầu vào quốc hội Hoa Kỳ mùa thu năm 1974, bọn này cắt viện trợ cho Miền Nam và Cambodge, khai tử Miền Nam.

Do đó, Cảnh Sát Quốc Gia chúng tôi kết luận ông Đôn Hậu đã hoạt động cộng sản trong một thời gian dài trước 1975 và sau 1975 một thời gian ngắn nữa.

Chúng tôi kết luận điều này dựa trên những quy định của ngành điều tra, đó là dựa trên các sự kiện cụ thể, chứng cớ nội phạm và ngoại phạm, nhân chứng, rồi đối chiếu từng sự kiện như cách thức điều tra của tất cả các bộ phận cảnh sát của tất cả các nước dân chủ trên thế giới mà VNCH là một thành viên. Bằng tất cả các bằng chứng và nhân chứng như vậy, lời “tâm sự” không làm cộng sản, bị cộng sản bắt của ông Đôn Hậu cũng như các đồn đãi này kia cho rằng đương sự bị cộng sản bắt đem đi được xem như hoàn toàn không có giá trị.

Và dưới đây là nhận xét ông Nguyễn Lý Tưởng, Dân Biểu Hạ Viện VNCH đơn vị Thừa Thiên, về Thích Đôn Hậu, nguyên văn:

“….. Từ Tòa Đại Biểu Chính Phủ trở ra, tôi được ông Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa cho mượn xe để đi thăm và chúc Tết Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh, ở tại chùa Thiên Mụ Huế. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ này vào trước Tết Mậu Thân là vì trong chuyến bay từ Sàigòn ra Huế trước Tết, tôi cùng đi với anh Nguyễn Văn Kim và anh Kim ngồi bên cạnh TT Thích Đôn Hậu trên máy bay. Anh Kim cho tôi biết có TT Thích Đôn Hậu nên tôi đã đổi chỗ cho anh Kim để ngồi nói chuyện với TT từ Sai gòn ra Huế gần 3 giờ đồng hồ. Sau đó TT mời tôi đến thăm chùa vào dịp tất niên.

Tôi là người thích nghiên cứu về văn hóa, lịch sử nên những cơ hội may được tiếp xúc với các vị cao danh như TT là điều tôi rất lấy làm vinh hạnh. Trong dịp đến thăm TT tại chùa Thiên Mụ, tôi rất ngạc nhiên về những điều TT nói ra. Tôi cảm thấy TT đã từng gặp gỡ Việt Cộng tại chùa hay ở đâu đó. Vì TT rất ca tụng tư cách của "bộ đội Việt Cộng", trong khi đó TT lên án quân đội Mỹ rất nghiêm khắc.

­Thượng Tọa nói với tôi nguyên văn như sau. "Quân Mỹ và quân đội Việt Nam đi đến đâu thì phá đến đó, còn bộ đội Giải Phóng Miền Nam đi đến đâu thì không làm rẽ rụng một ngọn lá khoai!"

Điều đó có đúng hay không thì chỉ sau đó mấy ngày thôi, nhân dân TP Huế cũng đã thấy rõ…”

(Bài viết trên được trích nguyên văn từ bài viết của cựu Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng.)

Lính VNCH đi đến đâu phá phách đến đó (?) hay lính VNCH đã cung kính các “thầy” quá mức nên các “thầy” tha hồ lộng hành?

Các “thầy” lộng hành làm mưa làm gió, làm luôn chính trị “Yêu cầu Ông Thiệu từ chức tức khắc!”

Toàn bộ nội dung cuốn băng nhựa bí mật của Thích Đôn Hậu, Đệ III Tăng Thống GHPGVNTN Tự Thuật về Sự Thật Lịch Sử Cận Đại: Bản thân đương sự và GHPGVNTN Đồng Hành cùng Cộng sản

Chủ đề: Thích Đôn Hậu, một đảng viên Cộng sản cấp trung ương và là Đệ III Tăng Thống của GHPGVNTN, tự thuật lại việc CSVN đã lập tức vắt chanh bỏ vỏ đối với GHPGVNTN ngay sau khi tổ chức này góp công lớn trong việc lật đổ VNCH và vốn từng được Hồ Chí Minh trực tiếp 'cảm ơn' và 'hoan nghênh' vào năm 1968.

Vì phần tự thuật dài trên 1 giờ 30 phút, để quý vị tiện theo dõi và nhận định, phần âm thanh được ghi chép ra thành nhiều đoạn theo đúng thứ tự của bản gốc.[4]

1. Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976

Tôi kể câu chuyện tôi được tiếp xúc với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng khi ra họp Quốc Hội kỳ 2 năm 1976. 

Sau khi nói những việc khác, Thủ Tướng hỏi: Thế cụ còn nói chuyện chi nữa không?

Tôi nói: Có. Tôi muốn hỏi Thủ Tướng một chuyện. Sau khi tôi ra miền Bắc năm 1968, thì vị mà tôi tiếp xúc đầu tiên là Hồ Chủ Tịch. Khi đó Thủ Tướng mới... Khi gặp Hồ Chủ tịch, thì câu nói mà có lẽ là câu nói chính của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch 'tán dương Phật giáo. Tán dương việc tranh đấu, phản đối các chánh quyền tay sai do Mỹ tạo nên ở miền nam Việt Nam.' Rồi Hồ Chủ tịch tán dương cuộc tranh đấu của Phật giáo là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức. 'Tôi rất là cảm kích về phong trào tranh đấu đó là một sự hi sinh của PG. Thay mặt Chánh Phủ Liên Tôn tôi thành thật cảm ơn và đặc biệt tôi rất hoan nghênh những việc tranh đấu đó.' Đại ý như vậy. Khi đó có Thủ Tướng.

Thì vài ngày sau, trong buổi chiêu đãi của Mặt Trận Tổ Quốc do cụ Tôn Đức Thắng chủ trì, buổi chiêu đãi của phủ Thủ Tướng do Thủ Tướng chủ trì, buổi chiêu đãi của Trung Ương Đảng do cụ Lê Duẩn chủ trì thì các vị đều tán dương Phật giáo, đại khái như Hồ Chủ tịch đã nói. Chừng đó các vị vẫn còn nhớ. Nhưng điều tôi ngạc nhiên hết sức, đó là khi trong thời chiến. Đến khi thời bình, chúng tôi được về miền nam Việt Nam, chúng tôi thấy sao các vị cán bộ trung cấp (nhất là trung cấp) đối với Phật giáo có sự nhục mạ thế này thế khác, nên mới ngạc nhiên hết sức. Sao trớ trêu vậy? Như vậy là tới khi giải phóng rồi lại đối với Phật giáo như vậy thì tôi ngạc nhiên hết sức.

Tôi nói ở đây tôi ngưng, thì Thủ Tướng nói thế này: Đâu có gì đâu cụ!

Tôi hỏi: Xin Thủ Tướng cho biết lý do?

Thủ Tướng nói: Đó, thế tại sao cụ biết mà. Trong khi Mỹ đã đi rồi, Thiệu xuống rồi, mà khi đó Phật giáo âm mưu lập thành chánh phủ của Phật giáo, đưa Dương Văn Minh lên để làm Tổng Thống. Lập để chi vậy? Lập chính phủ đó để mà đánh với Cách mạng, phải không?

Tôi nói: Cái chuyện đó có! Có lập chính phủ. Phật giáo chúng tôi lập chính phủ. Nhưng mà thế này thưa Thủ Tướng. Tôi nói với các vị ở trong Viện Hóa Đạo thế này: Các Hòa Thượng nên nhớ rằng Phật giáo chúng ta không ngu si cho đến cái độ lập một Chính phủ Phật giáo sau khi Mỹ đổ (cút rồi), Thiệu nó vơ vét của cải nó đi rồi. Của cải ở miền nam Việt Nam không còn gì nữa. Cách mạng đến bên lưng rồi mà thành lập cái Chính phủ Phật giáo. Dương Văn Minh cũng không đến đỗi ngu gì mà theo những người mà khi đó đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống.

Tôi nói: Những vị Phật giáo nói với nhau thế này: Phật giáo chúng ta con sâu con kiến cũng thương, huống chi là con người. Mà đã bao nhiêu năm chiến tranh rồi, đã chết chóc đau thương chồng chất. Như Hòa Thượng cũng biết đó, nếu bây giờ đây mà chết chóc như vậy nữa. Nếu bây giờ đây nếu để cho ông già lụ khụ Trần Văn Hương đó, thả lỏng cho ông tuyên bố "đánh". Như vậy thì thử hỏi có thể chết thêm bao nhiêu người. Cả hai bên chết thêm bao nhiêu người nữa? Nếu muốn hạn chế... muốn hạn chế... sự chết chóc, hạn chế sự phá hoại của cải cho nên Phật giáo chúng ta chủ trương

Thấy khi đó không ai lo hết. Thấy không ai lo cả nên phải lập Chính phủ đưa Dương Văn Minh lên là như vậy đó. Nhưng không phải lập để mà đánh với Cách mạng. Lập lên để mà đầu hàng, chứ không phải để mà đánh với Cách mạng.

Thủ Tướng hỏi: Vậy thì tại sao Dương Văn Minh lên lại tuyên bố 'giữ lại mảnh đất cuối cùng'? Giữ lại mảnh đất cuối cùng nếu không phải là đánh với Cách mạng thì giữ sao?

Tôi nói: Tôi xin hỏi, khi Dương Văn Minh tuyên bố như vậy về sau có nổ phát súng nào không? 

Thủ Tướng nói: Không!

'Thì đó. Như vậy thì Dương Văn Minh chỉ tuyên bố mà thôi chớ không phải là đánh.'

Thủ Tướng hỏi: Vậy thì tại sao tuyên bố như vậy?

Tôi nói: Tôi hỏi rồi. Các vị ở trong Viện Hóa Đạo nói thế này: Năm 1971, thì Chánh Phủ Cách mạng Lâm Thời, rồi Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tuyên bố: "Chúng tôi bằng lòng lập Chính phủ Liên Hiệp với VNCH không Thiệu." Nhưng mà Thiệu của ai? Thiệu do Mỹ tạo nên. Bây giờ chúng ta muốn đòi hỏi Mỹ rút mà cứ đòi Mỹ gạt Thiệu ra, đó là cái chuyện không được. Nếu Mỹ bảo toàn danh dự của họ thì họ phải giữ gìn Thiệu thôi. Do đó mà cứ mặc cả suốt một năm. Ta gọi là cò kè bớt một thêm hai. Mặc cả suốt một năm. Đến năm 72 (có lẽ), bên chính phủ Cách mạng mới thấy rằng muốn cho Mỹ cút thì mình không thể nói như vậy được, không thể nói không có Thiệu được. Thấy như vậy cho nên chính phủ Cách mạng với Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tuyên bố rằng: "Chúng tôi bằng lòng lập Chính phủ Liên Hiệp với miền nam Việt Nam gồm có ba thành phần. Ba thành phần: Thứ I là Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời, thứ II là Khối Trung Lập, thứ III là VNCH." Không nói, không đòi hỏi cái "không Thiệu" mà chỉ nói là lập Chính phủ Liên Hiệp với miền nam Việt Nam gồm có ba thành phần mà thôi. Tuy không nói "có Thiệu" nhưng mà có Thiệu bởi có VNCH, không nói "không Thiệu" thì tức là "có Thiệu".

Nếu muốn thực hiện được cái Chính phủ Liên Hiệp đó, đưa Dương Văn Minh lên phải tuyên bố giữ lại mảnh đất cuối cùng. Vậy thôi, không có để đánh với Cách mạng mà để lập Chính phủ Liên Hiệp tại miền nam Việt Nam gồm có ba thành phần như Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời đã đòi hỏi. Nếu như không lập chính phủ, không nói như vậy, không đòi hỏi giữ lại mảnh đất cuối cùng (dù là 5km cũng được, 10km cũng được) để nói đó là VNCH, làm sao mà lập Chính phủ Liên Hiệp chớ. Cho nên bắt buộc Dương Văn Minh phải tuyên bố giữ lại mảnh đất cuối cùng. Giữ lại để mà lập Chính phủ Liên Hiệp chứ không phải để mà đánh với Cách mạng. Cho nên sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đâu có phát súng nào.

Nói đến đây thì Thủ Tướng nói: Cụ nói như vậy thì Phật giáo muốn cho người Mỹ ở mãi ở đây sao? Ở mãi tại miền Nam hay sao?

Tôi nói: Chẳng những người Mỹ mà thêm nữa được không? Bởi vì trước kia, chưa ký hiệp định thì họ là người thù, là quân đội là người thù. Đến khi ký hiệp định rồi thì họ không còn là quân đội nữa. Không còn là quân đội nữa thì họ là bạn để mà ăn ở với nhau vui vẻ, sống với nhau thì tốt hơn. 

Tôi thấy tôi nói như vậy thì Thủ Tướng không nói gì cả.

Đó là buổi nói chuyện với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. 

2. Định phang ghế ngồi vào Võ Nguyên Giáp[5]

Bây giờ có người hỏi tôi: Sau khi Hòa Thượng được đắc cử thì có suông sẻ không?

Tôi kể cho rõ hơn: Sau khi về miền nam Việt Nam rồi, được vào Sài Gòn, tôi gặp ông Nguyễn Hữu Thọ. Ông Nguyễn Hữu Thọ hỏi tôi trước khi gặp ông Nguyễn Hữu Thọ thì đã từng về Thừa Thiên, có nghe nhân dân nói như thế nào không?

Tôi nói: Ôi chao! Nghe nói thì nhiều lắm.

Ông hỏi: Nghe nói như thế nào?

Tôi nói: Họ nói sau khi giải phóng rồi, thì họ tưởng rằng Phật giáo đã qua khỏi tai nạn, pháp nạn đã qua. Không ngờ pháp nạn cứ liên tiếp.

Ông Nguyễn Hữu Thọ hỏi: Pháp nạn như thế nào?

Tôi nói: Sau khi giải phóng rồi, thì cái nạn phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum... Nhất là bức tượng ở Biển Hồ. Bức tượng xây dựng rất lớn, có cái hồ rất đẹp. Mấy triệu đồng! Cho đến nay cũng đập, bức hiếp... các tượng lộ thiên. Mấy anh em cán bộ, bộ đội xuống đập vỡ tan hết. Do đó, bao nhiêu tình đoàn kết thiêng liêng rã rất nhiều! Bao nhiêu tình thương yêu, quý trọng cán bộ, bộ đội cũng từ đó mà giảm bớt. Rồi họ hỏi: Tại sao các anh làm như vậy? Thì cán bộ nói: Bức tượng đó là của Ngụy Quân nó tạo ra, bây giờ Ngụy Quân nó đi rồi thì phá chớ để làm chi. Họ nói thế này: Mặc đồ lính kêu là Ngụy Quân. Nhưng mà sự thật không phải là Ngụy Quân. Bởi vì đây là cá nhân. Cá nhân của từng người lính họ nói với nhau rằng: Chúng ta ngưng bớt ăn chơi lãng phí. Ngày nào chúng ta cũng góp. Góp lại. Ngày nào cũng góp. Góp nhiều ngày. Góp nhiều ngày thì tự nhiên có số tiền lớn để chúng ta làm việc Phật sự. Thì họ nghe nhau. Họ góp. Góp nhiều ngày, góp nhiều người để có số tiền lớn. Họ mới làm một bức tượng lộ thiên.

Khi làm bức tượng đó, các ông Sĩ Quan cũng đến giúp đỡ âm thầm chứ không dám ra mặt. Sĩ Quan mà giúp đỡ cho người lính xây dựng tượng đó thì Sĩ Quan đó sẽ bị cách chức hay là giáng chức. Bởi vì Phật giáo lúc đó cứ tranh đấu với Chính phủ mãi. Cho nên họ ghét Phật giáo ghê lắm. Hết Chính phủ này lên rồi Chính phủ khác lên mà cứ tranh đấu mãi cho nên họ ghét ghê lắm. Dựng tượng như vậy là tiếp tay cho những người tranh đấu mình cho nên Chính phủ ghét. Vì vậy không ai dám giúp đỡ hết, âm thầm thôi.

Lính nói với nhau thế này: Mấy ông đó là sĩ quan. Họ sợ cách chức hay giáng chức nên không dám ra mặt, còn chúng ta là lính không sợ chi cả.... Chúng ta chỉ sợ mất lý tưởng, tín ngưỡng mà thôi. Bây giờ muốn bảo tồn tín ngưỡng của mình thì xây dựng bức tượng lộ thiên để mai chiều lễ bái, cầu nguyện. Cứ làm. Nếu chánh quyền thấy ghét chúng ta đuổi đi chổ khác. Đi chổ khác thì càng hay, chúng ta sẽ xây dựng chổ khác. Còn chổ này lỡ việc có anh em khác đến, họ tiếp tục làm. Cho nên họ cứ làm mà ngày nào đó tượng lộ thiên mọc lên rất nhiều.

Bây giờ nói rằng cách mạng về, cái gì của Ngụy Quân làm ra, thì Ngụy Quân đi rồi, phá chứ để làm gì. Nói Ngụy Quân thì có một thứ thôi bởi vì họ mặc đồ lính. Đó không phải là Ngụy Quân, mà lính thôi, cá nhân thôi. Nếu đem việc nhà binh ra mà làm thì đó là Ngụy Quân thiệt, còn xây dựng là Ngụy Quân giả.

Cách mạng về cái gì của Ngụy Quân thì phá hết. Bao nhiêu nhà cửa, tàu bè, máy móc, xe cộ, đường xá... của Ngụy Quân làm... các ông không phá cái chi hết mà để đó dùng. Như vậy cái gì các ông ưng thì các ông cứ để mà dùng, còn cái gì các ông không ưng như Trời Phật thì cứ cho là của Ngụy Quân là phá. Thái độ đó có xứng đáng hay không?

Tôi nói tiếp: Tôi trình bày với Chủ Tịch như thế đấy. Tôi không dám cho anh biết đâu, bởi vì cho anh biết là can ngay. Cho nên tôi gặp Thủ Tướng thì tôi nói trực tiếp thôi.

Rồi tôi mới nói: Tôi trình bày chuyện đó xong rồi. Bây giờ nói qua việc khác. Việc tôi sắp nói đây không dính dáng chi tới việc tôi vừa trình bày. (Tôi nhắc lại) Khi ở trên Trường Sơn, thì cơ quan có mời tôi vào chức Phó Chủ Tịch Trung Ương Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình Việt Nam.

Tôi nói rằng: Ngày nay tôi sống trong gia đình Cách mạng, trong đại gia đình Cách mạng. Làm cái gì lợi ích cho Cách mạng thì tôi không tiếc. Nhưng mà chức vị to như thế này tôi không dám. Tôi từ chối mãi.

Sau đó cơ quan nói: Đây là ý kiến của Trung Ương.

Tôi nghĩ rằng đã ý kiến của Trung Ương thì tôi đâu dám từ chối. Tôi phải nhận. Nhưng trước khi nhận tôi xin có lời yêu cầu: Thứ nhất là đừng có lấy chùa mà làm trận địa. Đừng lấy chùa mà làm trận địa là đặt súng trong chùa mà bắn người ta. Nếu làm như vậy là gián tiếp phá chùa. Thứ hai là khi hòa bình độc lập rồi, thì cho tôi trở lại cương vị tu sĩ thuần túy của tôi.

Tôi yêu cầu như vậy thì mới chịu. Tối lại, có câu trả lời là đồng ý cho tôi là khi hòa bình độc lập thì tôi trở lại cương vị tu sĩ của tôi. Vì bằng lòng lời yêu cầu đó tôi mới nhận.

Đến khi ra Hà Nội, ông Lê Toàn Thư nhân danh đại diện cho Ủy Ban Thống Nhất đến chào tôi.

Tôi hỏi: Tôi ở trên Trường Sơn, mời tôi vào chức Phó Chủ Tịch Trung Ương Liên Minh thì tôi có yêu cầu như vậy đó. Anh nghĩ sao?

Ông Lê Toàn Thư nói: Tốt thôi! Vâng, hòa bình độc lập rồi thì mời Hòa Thượng về tu.

Tôi nhắc lại với ông Nguyễn Hữu Thọ: Vậy thì bây giờ đây hòa bình độc lập rồi thì cho tôi thực hiện cái ý muốn, yêu cầu của tôi tại Trường Sơn. Cho tôi trở về với cương vị tu sĩ thuần túy, đó là cái nguyện vọng khát khao của tôi.

Ông Nguyễn Hữu Thọ nói: Để tôi phản ánh với cấp trên rồi sẽ trả lời sau.

Ba ngày sau, ông Nguyễn Hữu Thọ đưa giấy mời, mời tôi gặp mặt trong buổi họp tại chổ ở của ông Nguyễn Hữu Thọ. Đúng 3 giờ chiều thì tôi đến. Ông Nguyễn Hữu Thọ với ông Huỳnh Tấn Phát đang ngồi ngó ra thấy xe tôi đến thì hai ông bước xuống đón. Nói chuyện xã giao vài câu thì thấy nhiều người đến, có ông Trần Minh Trung, ông Trịnh Tiến Thảo, vv.vv... thấy đông vài chục người.

Tôi nghĩ hôm nay mời họp thì chương trình nghị sự không thấy, chỉ thấy ông Nguyễn Hữu Thọ sắp mọi việc mà không thấy chương trình nghị sự.

Ông Nguyễn Hữu Thọ giới thiệu tôi ngồi chủ tọa, (mặc dù ai cũng biết rồi, nhưng đó là cái lệ nói chuyện nên giới thiệu như vậy), rồi giới thiệu cử tọa của tôi.

Tiếp theo ông Nguyễn Hữu Thọ tán dương tôi, tán dương rất nhiều. Sau khi tán dương, ông Nguyễn Hữu Thọ nói tiếp: Tôi xin thay mặt Chính phủ Liên Tôn và Liên Tôn: 'Yêu cầu bác tiếp tục đóng góp!'. Như vậy là lời yêu cầu trở về cương vị cư sĩ thuần túy của tôi là ông không chấp nhận.

Tôi nghĩ rằng vì tôi, vì sự yêu cầu của tôi mà có buổi họp long trọng thế này. Bây giờ ông đã yêu cầu như vậy thì nói sao? Tôi chỉ làm thinh, không nói không cũng không nói . Khi đó tôi nghĩ rồi đây có ứng cử Quốc Hội thì mình làm thinh như vậy, đừng ra là được thôi.

Tuần đến, tuần hai, tuần ba... tôi thấy êm. Tôi mừng quá. Rồi thấy xôn xao sắp đặt cuộc bầu cử, nào là dán bích chương thế này thế khác mà không nói gì tôi, tôi mừng quá. Nhưng không ngờ, ông Hoàng Phương Thảo lên. Tưởng lên thăm, nhưng ông nói: Tôi là trưởng ban bầu cử Thừa Thiên. Hôm nay lên để mời cụ ra ứng cử Quốc hội.

Tôi từ chối, tôi nói ý định của tôi: Tôi đã đóng góp rồi. Giờ tuổi già sức yếu rồi, tôi muốn trở về tu hành. Trở về tu hành cũng là một cái sự đóng góp lớn lao.

Ông nói: Đây là ý kiến của Trung Ương.

Lại ý kiến của Trung Ương.

Tôi nói: Đã ý kiến của Trung Ương thì tôi không dám nói gì rồi. Tôi phải chấp nhận ra ứng cử. Nhưng mà tôi xin có yêu cầu: Mỗi người ai cũng có hai vai mà mỗi người gánh có một, là dân tộc. Tôi hai vai, gánh hai việc mà phải làm tròn: Là dân tộc và Phật giáo. Cái nào cũng làm cho tròn. Vậy thì, tôi nhận lời ra ứng cử. Tôi ra ứng cử rủi thì mà đắc cử. (Tôi nhấn mạnh) Nếu rủi thì mà đắc cử, sau đó không làm được một việc gì trong hai việc khi nào là tôi đi khi ấy. Tôi xin yêu cầu như vậy.

Ông Hoàng Phương Thảo nói: Cụ cứ ra. Trong Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp đương nhiên có mục tự do tín ngưỡng. Có gì không đồng ý cụ cứ nói đi.

Thấy ông nói cho qua việc. Nhưng mà dù sao buộc tôi phải nhận lời. Tôi chấp nhận ra ứng cử.

Ra ứng cử thì làm thủ tục thế này thế khác, tôi cũng tuyên bố nhận lời vậy thôi. Ông ấy về thì qua ngày mai tôi bắt đầu đau. Tôi lo nghĩ buồn bực quá, tôi đau. Khi đau, tôi có ý nghĩ quá trớn. Trong khi đau mà chết được thì tốt quá.

Nhưng rồi thì có mấy anh đem Lời Giới Thiệu của tôi, Lịch Sử của tôi lên cho tôi coi. Tôi thấy viết bậy quá, lộn bậy lộn bạ quá tôi ngồi sửa. (Khỏe khỏe rồi tôi sửa). Trong khi tôi đang sửa có mấy người khác lên. Thấy tôi đang sửa thì họ mừng quá. Họ lấy để họ in.

Dù sao thì tất nhiên tôi cũng ra ứng cử rồi. Tôi thấy tôi buồn quá. Như vậy là phải ra. Buồn quá!

Nhưng khi ra ứng cử thì có cái lạ hết sức. Sao nghe dư luận lạ hết sức. Thừa Thiên có 6 huyện mà 4 huyện ra lệnh cho dân trong huyện: "Không nên bầu ông Đôn Hậu", còn 2 huyện Hương Trà, Hương Thủy thì không ra lệnh như vậy mà chỉ có các buổi mạn đàm. Dù không ra lệnh đừng bầu ông Đôn Hậu, trong các buổi mạn đàm đó ra lệnh miệng để cho đừng ai bầu Ôn Đôn Hậu.

Thí dụ: Chính phủ của ta là Chính phủ trẻ trung, phải xây dựng nhiều, cần người trẻ trung, sáng suốt, có khả năng. Cho nên bầu QH thì bầu người sáng suốt, trẻ trung chứ còn các ông già thì để người ta nghỉ thôi. Bầu mấy ông già thì mệt lắm. Họ chẳng có ý kiến gì. Họ già thì chết rồi mất người bầu lại phiền lắm.

Trong khi trên bàn chủ tọa đưa ra như vậy, thì ở dưới có người nói: Thưa anh, cho tôi hỏi, cụ Tôn Đức Thắng năm nay bao nhiêu tuổi?

'80 thì chắc chắn'.

'Ờ thì đã 80 mà ứng cử được, ôn Đôn Hậu chưa 80 thì ra được thôi.'

Nói như vậy thì họ vỗ tay. Thành ra việc cản trở đừng có bầu tôi trong buổi mạn đàm đó bị gãy.

Buổi mạn đàm khác:

Bàn chủ tọa: Ôn Đôn Hậu có tranh đấu đó nhưng mà Ôn tranh đấu cho Phật giáo chứ đâu phải cho dân tộc. Ta nên tìm những người có tranh đấu cho dân tộc mà bầu.

Trong hội trường có người trả lời: Theo tôi, trong Chính phủ Ngụy Quân, à Ngụy Quyền vừa rồi (như Chính phủ Ngô Đình Diệm chẳng hạn). Ngô Đình Diệm khi lên làm Tổng Thống, lê máy chém đi hang cùng ngõ hẻm diệt người kháng chiến, trả thù người yêu nước. Trong khi đó ở miền nam Việt Nam có nhiều đảng phái, nhiều tôn giáo, mà có tôn giáo nào dám đứng phản đối Ngô Đình Diệm như Phật giáo đâu. Phản đối tức nhiên là vạch trần tội ác của Ngụy Quyền ra. Vạch trần tội ác Ngụy Quyền thì làm cho họ mất tất cả thể diện quốc nội, quốc ngoại. Như vậy không lợi cho Cách mạng thì là cái gì? Thành ra tuy là tranh đấu cho Phật giáo nhưng cũng làm lợi cho Cách mạng ở chổ đó.

Ở dưới người ta vỗ tay. Vỗ tay như vậy thì cái luận điệu của người trên bàn chủ tọa bị gãy rồi.

[Sao lạ vậy]

Buổi mạn đàm thứ ba:

Bàn cử tọa: Theo tôi, ông Đôn Hậu (mà buổi mạn đàm nào cũng chăm ông Đôn Hậu mà nói thôi chứ không thấy nói ai) có đi với Cách mạng đó nhưng Ôn bị bắt chứ đâu phải tình nguyện đi. Cho nên ta lựa người tình nguyện đi với Cách mạng kia.

Dứt lời thì ở dưới có người hỏi: Anh cho tôi có ý kiến. 'Ôn Đôn Hậu bị bắt'. Cái câu đó nếu trước đây nói thì bị tù rồi đó, nhưng bây giờ thì không sao. Nhưng nếu như Ôn đã bị bắt thì có tội mới bị bắt chứ. Đã là có tội thì tại sao khi lên Trường Sơn vỏn vẹn đâu trên dưới 10 ngày mà đã đưa cái tội nhân (Đôn Hậu là 'tội nhân' đó) lên làm Phó Chủ Tịch Trung Ương Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình Việt Nam. Cái chi lạ vậy, sao đưa tội nhân đó lên cao dữ vậy? Làm Phó Chủ Tịch Trung Ương chứ đâu phải là Địa Phương?

Đến năm 69, lại đưa tội nhân đó vào Ban Cố vấn Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam VN. Chính phủ làm chi lạ vậy? Đưa tội nhân đó lên chức Phó Chủ Tịch Trung Ương Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời miền nam Việt Nam là quá rồi, mà sao đưa lên Hội đồng Cố vấn Chính phủ được? Sao lạ vậy? Anh cho biết?

Anh kia lúng túng. Tới đó là gãy. Họ vỗ tay.

Nhưng nghe đâu đến khi kiểm phiếu, chính ông Hoàng Phương Thảo nói: Lạ quá! Lạ quá! Tôi cũng điên rồi. Sao Ôn Đôn Hậu bị phiếu tụt thế này? Rớt tụt thế này? Thì làm sao?

Sau đó nghe đâu ở Trung Ương đưa tin vô: "Không được làm cho ôn Đôn Hậu thất cử." Thế là tôi đắc cử với con số trên 60%. Đó là con số chót. Tất cả các đại biểu ở Thừa Thiên mà chỉ tôi là người chót. Tôi lấy làm lạ mà phải chịu thôi.

[Ra Họp Quốc Hội]

Đến khi ra họp Quốc Hội. Họp Quốc Hội thì chia ra từng khóm. Nghĩa là mới đến thì họp mỗi tiểu ban.

Trong đó có mục Đánh Giá Ứng Cử Viên. Đến mục đó chưa thấy ai nói gì, tôi hỏi mấy ông (khi đó có anh Trung, anh Nguyễn Tất Trung): Đến cái mục này tôi muốn nói được không?

Anh Trung: 'Muốn nói chi ông cứ nói thôi!'

Tôi nói: Thưa Quý vị Đại Biểu, theo tôi từ ở trên Trường Sơn như vậy đó, như vậy đó... (Tôi kể hết) Tức là tôi không muốn ra ứng cử chút nào hết, mà đây là sự bắt buộc tôi mới ra. Đến khi tôi ra rồi thì Thừa Thiên có 6 huyện. Bốn huyện thì ra lệnh như vậy còn 2 huyện không ra lệnh mà có những cuộc mạn đàm đưa ra như vậy tức là muốn làm cho tôi thất cử. Không muốn cho tôi ra ứng cử thì tại sao đưa tôi ra mà lại không muốn cho tôi đắc cử.

Tôi chưa thấy, trên 70 tuổi [có tiếng tụng kinh...]...

[Phang ghế]

Nhưng mà ông Võ Nguyên Giáp lên tiếng: Tôn giáo mà họ bầu như vậy là cao lắm đó rồi nhá!

Câu nói của ôn Võ Nguyên Giáp, tôi thấy trong khi đó cái bất bình của tôi nó lên cực độ. Trong khi nó lên cực độ tôi mới nhớ lại mình là thầy tu. Mình là thầy tu phải có một thái độ như thế nào để khác với người ta. Nếu không phải là thầy tu đó, thì cái ghế của tôi sẽ phang ông Võ Nguyên Giáp một cái. Nhưng mà may quá tôi thấy mình là thầy tu rồi may quá! Chứ không thôi mọi chuyện xảy ra như vậy đấy.

3. Bổ túc về Lời tuyên bố của Dương Văn Minh[6]

Tôi xin bổ túc thêm khi nãy nói với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng chuyện Dương Văn Minh tuyên bố 'giữ lại mảnh đất cuối cùng'. Phật giáo nghĩ rằng: Như thế này mới buộc Dương Văn Minh phải tuyên bố. Nếu không tuyên bố thì có đất VNCH đâu để mà lập Chính phủ Liên Hiệp. Có VNCH trong Chính phủ Liên Hiệp thì Thiệu buộc lòng phải nuôi người miền Nam VN, bởi người miền nam Việt Nam là của Thiệu. Mà Thiệu nuôi người miền nam Việt Nam thì buộc Mỹ phải giúp cho Thiệu để Thiệu nuôi.

Đồng thời, có giữ lại mảnh đất cuối cùng, có VNCH, do Thiệu làm TT trước kia, thì người Mỹ mới đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh theo họ đã hứa, đã ký trong hiệp định Paris. Nếu không tuyên bố như vậy, (thì lẽ đương nhiên là mình lấy hết, Chính phủ Cách mạng Lâm Thời sẽ lấy hết), mà đã lấy hết, thì còn VNCH đâu mà liên hiệp. Lấy như vậy thì người Mỹ đâu có dại gì mà bỏ 1 đồng xu. Chắc chắn họ sẽ không cho mình một đồng xu nào hết.

Vì thế cho nên Minh phải tuyên bố "giữ lại mảnh đất cuối cùng". Ba bốn cây số cũng được, năm mươi hoặc mười cây số cũng được!

4. Thừa nhận mình đã tham gia Cách mạng[7]

Bây giờ tôi kể một chuyện sau khi ở Hà Nội về Huế. Tôi kể ở đây có hơi lộn xộn, nhớ chi nói nấy.

Về Huế, cái hi vọng nhất của tôi là vào Sài Gòn thăm Viện Hóa Đạo, thăm các vị Hòa Thượng và Thượng Tọa trong đó, đã xa cách nhau 8 năm trường.

Làm sao vô, phương tiện gì, mà có phương tiện chắc chi mà đi được? - Cứ hi vọng nhưng chưa đạt.

Ba tháng sau, bức điện của ông Nguyễn Hữu Thọ đánh ra mời tôi vào họp. Tôi vào thì đi máy bay, vào Đà Nẵng chờ đợi, lên không có máy bay rồi về. Một tuần sau mới đi.

Ủy Ban Trung Ương Đà Nẵng đánh điện cho Mặt Trận là tôi đã lên máy bay. Mặt Trận độ thời gian lên máy bay và vô trong đó là bao nhiêu, rồi đem xe đến phi trường Tân Sơn Nhất đón. Lên đón, đợi mãi không có máy bay rồi họ về. Lên lần thứ 2 cũng không có rồi họ về. Thế rồi, đến khi máy bay của tôi đến Tân Sơn Nhất không biết làm sao đi vì xe cộ không có.

Anh Tiềm nóng nảy, tức tối hết sức: Tại sao không có xe của Mặt Trận lên đón?

Anh ấy đâu có biết đã đón 2 lần mà không có, họ về. Anh ấy ra thuê xe Taxi. Anh ấy nói: Bây giờ mời Ôn lại nhà anh Kỵ.

Tôi đến ông Kỵ, ăn cơm rồi nghỉ, rồi sau thì hay. Khi đó thấy anh Tiềm có thái độ bực bội ra thuê Taxi đi về, anh Tiềm biết số nhà. Ăn cơm nước xong, nghỉ cái đã.

Trong khi về nhà là xe Mặt Trận lên Tân Sơn Nhất đón. Lên đó họ cho biết: Có máy bay vô, trong đó có ông sư mà thấy họ thuê xe Taxi đi rồi.

Xe Mặt Trận đoán rằng có lẽ ông ấy đến Ấn Quang chăng? Đến Ấn Quang, họ hỏi: Có Hòa Thượng Đôn Hậu đến đây không? Vô rồi mà bây giờ không biết đi đâu?

Do đó mà Ấn Quang biết tôi vô. Hai ngày sau Ấn Quang dò hỏi mới biết tôi ở nơi con đường Phùng Khắc Khoan, ở chung với Thiện Hào. Sau đó, từ Viện Hóa Đạo, các vị lần lượt đến thăm. Nhưng hơn một tuần tôi chưa đến Ấn Quang được, bực bội hết sức. Xin mấy cũng không được vì công việc chưa được.

Trước hết, tôi gặp ông Nguyễn Hữu Thọ, ông cho biết: Sở dĩ mà mời bác vào vì trong này có một chuyện gây cấn. Giữa Phật giáo Ấn Quang với Chính phủ Cách mạng có thái độ chưa hiểu nhau, mất đoàn kết. Cho nên mời bác vô làm thế nào đó, vì bác là cả hai bên, để làm dấu nối cho hai bên.

À, tôi mới biết là như vậy tôi vô là do đó. Cho nên ông sắp đặt chương trình để tôi đi chổ này chổ khác mà chưa cho đến Viện Hóa Đạo. Nào là thăm Lục Hòa Tăng, nào là thăm Phật giáo yêu nước vv... chưa cho thăm Viện Hóa Đạo. Một tuần hay 8 ngày sau, tôi xin thì các vị bằng lòng cho tôi đến Viện Hóa Đạo. Được tin tôi đi Viện Hóa Đạo, các vị Viện Hóa Đạo đến đón tôi.

Khi tôi đến thì có Thượng Tọa Thiện Minh, Thượng Tọa Huyền Quang ở sẵn đó. Ngồi nói chuyện một chập thì Hòa Thượng Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo đến. Lần lượt Trung Ương Hội Đồng Lưỡng Viện đến đầy đủ. Sau khi nói lời chào mừng thì Hòa Thượng Trí Thủ yêu cầu tôi: - Hòa Thượng đi 8 năm trường thì ở nhà trong Hội Đồng Lưỡng Viện hết sức là trông nhớ. Hôm nay được gặp Hòa Thượng trở lại Hội Đồng Lưỡng Viện rất là vui mừng. Bây giờ xin Hòa Thượng cho ý kiến Phật giáo nên làm thế nào đây để duy trì đạo pháp, duy trì tổ chức?

Hòa Thượng Viện Trưởng dứt lời, tôi nói: - Trước hết, tôi thành thật cám ơn Hội Đồng Lưỡng Viện, mà Hội Đồng Lưỡng Viện là tiêu biểu, các tỉnh giáo hội cho đến các khuôn giáo hội. Theo tôi biết, sau khi tôi đi thì, từ Hội Đồng Lưỡng Viện cho đến các tỉnh các khuôn, tất cả đều làm lễ cầu an cho tôi. Cầu cho trên bước đường phụng sự đạo pháp dân tộc của tôi được luôn luôn thuận bước, an lạc. Để đáp lại đạo tình thân thiết đó, tôi không biết nói gì hơn là tôi thành thật cám ơn, và tin rằng tiếp tục để đóng góp vào việc bảo vệ đạo pháp và dân tộc của Viện.

Và tiếp theo, Hòa Thượng Viện Trưởng có tỏ ý: - Bây giờ làm thế nào đây để bảo vệ đạo pháp, bảo vệ tổ chức?

Theo ý tôi: Điểm thứ nhất, mà nhất là cấp lãnh đạo, phải củng cố Bồ đề tâm. Bồ đề tâm mà không củng cố thì không còn nói gì nữa, không lãnh đạo ai được hết. Điểm thứ hai, phải giữ gìn Giới hạnh thật trang nghiêm. Nếu Giới hạnh mà không trang nghiêm thì tự mình không được lợi ích mà, nhất là lãnh đạo, không dám nói ai hết.

Thứ ba, chúng ta cố gắng xiển dương Chánh pháp. Khi thì ta có thể giảng cho 1000, 100 người. Còn khi không thể thể hiện được, chúng ta có thể giảng 5 người, 10 người. Nhiều lần, nhiều chổ giảng "5 người, 10 người" thì thành đông đúc như một lần giảng "100 người, 1000 người".

Thứ tư, chúng ta cố gắng tìm những người thừa kế. Phật có dạy "Phật pháp Pháp Nhị Bảo Do Tự Tăng Hoàng". Nghĩa là Tăng Bảo hoằng dương mà thiếu Tăng Bảo thì thiếu cả Phật Pháp. Không có Tăng Bảo thì không có Phật pháp. Cho nên phải tìm người thừa kế. Tức là Tăng Bảo ở tương lai.

Chúng ta cố gắng thực hành phương pháp mình đã lựa chọn. Nếu như tu hành bữa nay thấy thực hành phương pháp niệm Phật không thấy lợi ích thì qua Mật Tôn. Phương pháp này phương pháp khác thay đổi như vậy mãi rồi loay hoay không thành một kết quả nào hết. Cho nên cái phương pháp nào mà mình cố gắng thực hành đều đến kết quả như nhau. Mình cố gắng phương pháp nào mình đã lựa chọn.

Cuối cùng, chúng ta cố gắng dắt dìu tín đồ. Chúng ta hướng dẫn cho họ biết đạo, tin Phật một cách chắc chắn. Hướng dẫn cho tín đồ ngày quang chay. Hướng dẫn cho họ nghi lễ ngày Rằm, Mồng Một vv...

Nhất là, giao phú cho tín đồ một nhiệm vụ quan trọng: Họ phải làm thế nào để biến gia đình của họ thành ra gia đình Phật hóa. Tôi thấy vừa qua có những gia đình vợ chồng hết sức thuận thành về đạo, lo lắng cho đạo. Nhưng mà họ bỏ lơ con cái, không dạy vẽ chi hết. Có lẽ các đạo hữu ấy nghĩ rằng mình là cha mẹ mà theo Phật thế này thì con cái dám đâu lơ đễnh. Nhưng mà không ngờ rằng vì bỏ lơ không dạy vẽ chi cả, cho nên họ theo bên khác. Họ theo cái khác. Họ trở lại phản đối thì kêu trời không thấu. Cho nên phải dạy vẽ, biến gia đình của mình thành ra là gia đình Phật hóa. Dạy cho nó ngay từ khi 3 tuổi. Dạy con cái lòng tin Phật từ lúc 3 tuổi. Dạy cho nó biết chấp tay trước bàn thờ Phật, dạy cho nó biết ăn chay, dạy cho nó biết cung kính Tam Bảo. Lớn lên một chút dạy cho nó biết chư Phật hộ Phước hộ Thân. Nếu mình không có khả năng thì nhờ các đạo hữu khác hướng dẫn cho nó. Như vậy thì bên tăng đồ, hết thế hệ này đến thế hệ khác và bên tín đồ, qua thế hệ này đến thế hệ khác thừa kế, tiếp nối. Bao giờ cũng có người để duy trì đạo pháp. Duy trì đạo pháp có khi ồ ạt, có khi âm thầm. Mà biết đâu khi âm thầm nó còn lợi hơn khi ồ ạt.

Tôi có đôi lời vắn tắt để trả lời câu hỏi của Hòa Thượng Chủ Tịch. Xin hết lời.

Từ đó về sau, trong các buổi phát biểu của tôi, Hội Đồng Lưỡng Viện và một phần đông chư tăng ni không còn ngờ vực tôi nữa. Trước khi chưa nói chuyện, và cái sự kiện về Huế lại không ở chùa mà ở Viện Đại học. Đến khi vô Sài Gòn không đến Viện Hóa Đạo mà lại ở nhà đường Phùng Khắc Khoan. Những cử chỉ đó làm cho có nhiều người nghi đối với đạo pháp bây giờ tôi lạc lẽo lắm, không đậm đà bằng Cách mạng. Cho nên có người nói bây giờ ông ấy "mặc áo vàng bên ngoài thôi, bên trong thì áo đỏ". Có người nói chơi như vậy!

Nhưng sau buổi nói chuyện này, có người nói: 'Ô! Ông ấy vàng từ trong ra ngoài. Luôn luôn ông ấy mặc áo vàng mà!'

Nói đến đây, Thượng Tọa Thiện Minh hỏi: Thưa Hòa Thượng, Hòa Thượng trước kia thì không nói, nhưng từ nay sắp đi Hòa Thượng tham gia với tư cách gì? Cá nhân hay đoàn thể?

Tôi nói: Tôi thì luôn luôn cá nhân thôi, trước kia cũng vậy, mà từ nay sắp lui cũng vậy, luôn luôn là cá nhân.

Hòa Thượng Thiện Minh: Tại sao Hòa Thượng không nhân danh đoàn thể?

Tôi nói: Tôi không nỡ nhân danh đoàn thể bởi vì Thượng Tọa cũng như các vị Hòa Thượng, Thượng Tọa khác đã biết Đôn Hậu này, từ khi xuất gia, sau khi học đạo, cho đến mãi mãi ngày nay thì Đôn Hậu không làm một cái việc gì riêng cho mình hết. Trong khi đó làm riêng cái gì cũng được, nhưng mà không, chỉ làm cho đạo thôi. Trước sau chỉ vì đạo thôi thì ở ngoài hay tham gia Cách mạng cũng vì đạo mà thôi!

Thì làm cái gì, đã là vì đạo, thì có thái độ ngôn ngữ gì lợi cho đạo tôi mới làm. Cái tổn thương cho đạo, nhất định tôi không làm. Tôi làm cái gì lợi ích cho đạo thì trong tổ chức mình được nhờ. Nếu cái gì có hại, thì Đôn Hậu này chịu lấy. Nếu tôi nhân danh đoàn thể mà tôi sai thì đoàn thể sai, tôi không nỡ để đoàn thể phải chịu cái tiếng đó.

Nói như vậy Thượng Tọa Thiện Minh gật đầu một cái gần sát bàn.

Thượng Tọa Thiện Minh hỏi thêm: Thưa Hòa Thượng, đành rằng Hòa Thượng tham gia tư cách cá nhân, nhưng Hòa Thượng có muốn ai tham gia với Hòa Thượng nữa không?

Tôi nói: Tôi chỉ biết tôi tham gia là nhiều thôi. Còn ai nữa thì không dám biết. Dầu có ai tham gia đi nữa thì tôi yêu cầu mình tham thì cứ là mình tham gia, đừng có vì mình tham gia mà bắt buộc người khác tham gia với mình. Cái chuyện đó tôi không đồng ý.

Thượng Tọa Thiện Minh: Tại sao như vậy Hòa Thượng nói rõ ra một chút?

Tôi nói: Là thế này, tôi tham gia với tinh thần bảo vệ đạo pháp. Người khác không tham gia với tinh thần bảo vệ đạo pháp. Thì đứng ngoài để bảo vệ đạo pháp, vào trong đó để bảo vệ đạo pháp, y nhau. Cho nên tôi không muốn ai tham gia và tôi không rủ ren ai đi theo với tôi hết.

Thượng Tọa Thiện Minh nói: Đi lâu mới biết đường dài. Ở lâu mới biết con người phải chăng.

5. Tự thú PGVNTN đã đồng hành cùng Cộng sản tấn công Huế, Tết Mậu Thân 68[8]

Có một số chư tăng hỏi tôi: Sau khi Hòa Thượng rút lui khỏi chân Đại Biểu Quốc Hội thì có xảy ra cái gì không?

Tôi trả lời đúng như sự thật. Đưa đơn từ chức Đại Biểu Quốc Hội thì 10 ngày sau, dưới tỉnh cho các vị quen biết đến vận động tôi đừng làm việc đó, và cũng vận động những chư tăng quen biết vận động tôi không nên rút lui như vậy. Trước sau có đến 10 lần đến vận động.

Tôi nói: Việc làm của tôi là việc làm của người lớn, chứ không phải của con nít. Nghĩa là làm cái gì cân nhắc đắn đo kỹ lưỡng rồi mới làm, chứ không phải nhắm mắt làm càng làm quấy đến khi ai nói rồi rút lui.

Thêm nữa, tôi từ chức với Trung Ương chứ không phải với Địa Phương. Cho nên có muốn nói gì thêm thì gặp Trung Ương tôi nói thôi. Nói với địa phương tôi không có lời chi hết và các vị cũng không có nhiệm vụ chi mà giải quyết. Khi nào gặp Trung Ương tôi nói thôi.

Do đó, mấy ngày sau, dưới tỉnh, Mặt Trận lên nói: Hòa Thượng muốn gặp Trung Ương thì ngoài Trung Ương gởi tin vào mời Hòa Thượng ra để gặp các vị Trung Ương.

Tôi chỉ mớ giấy mà Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội đưa thơ triệu tập: Bởi vì tôi đưa đơn từ chức nhưng Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội không nhận lời, nên cứ đưa thơ mời đi họp Quốc Hội. Họ coi như không chuyện gì xảy ra. Bây giờ tôi đi ra ngoài đó. Các vị bắt tôi ngồi họp thì tôi có từ chức chi nữa không? Tôi xin ở nhà thôi.

Tôi ra nhằm mục đích gặp các vị Trung Ương hay là các vị Trung Ương vào gặp tôi cũng như nhau. Các vị đi vô dễ hơn là tôi đi. Tôi xin ở nhà. Khi nào gặp các vị đi vô, tôi nói chuyện.

Thế rồi, ngày mùng 8 tháng Chạp năm 1978, thì Văn Phòng dưới tỉnh cho một vị lên: Có các vị đại biểu thay mặt Trung Ương muốn vào gặp cụ. Nếu được cụ nhận lời thì 10 giờ các vị lên.

Tôi nói: Vâng, xin mời các vị lên.

Gần 10 giờ, tôi ra trước tiền đường đón ông Bùi Sang và Cổ Kim Thành. Các vị ấy đưa cho tôi một bức điện với đại ý là UBTVQH nhờ hai vị ấy gặp tôi để bàn thêm ý kiến.

Đọc xong bức điện, tôi nói: Các vị thì tôi vẫn thường gặp. Nhưng bây giờ các vị lại thay mặt Trung Ương đến gặp tôi tức các vị là Trung Ương Điều tôi trông mong đã lâu thì bây giờ mới thể hiện, tôi rất hoan nghênh. Vậy thì tôi xin nói hết những gì tôi muốn nói.

Chắc các vị đã biết một cách rõ ràng là Phật giáo chúng tôi luôn luôn gắn liền dân tộc. Phật giáo với DT gắn liền nhau như môi với răng. Cho nên khi ra Bắc, tôi được các vị cho biết: Thời gian qua các vị Cách mạng tiền bối (kể cả Hồ Chủ Tịch và hiện tại như Thủ Tướng Phạm Văn Đồng vv...) đã ở chùa để tiếp tục làm Cách mạng. Nếu Phật giáo không yêu nước, trong khi các ngài ở chùa, các nhà sư mà xấu thì các ngài cũng không còn đến ngày nay để lãnh đạo. Từ đó về sau, trãi qua những cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, các vị cũng biết nhà chùa là nơi giúp đỡ chở che cán bộ, bộ đội như thế nào.

Ngay cả tết Mậu Thân, cán bộ bộ đội về Thành phố Huế nhiều như vậy. Về thì ở đâu? Không phải ở nhà đạo khác, mà chỉ ở nhà Phật tử. Nếu Phật tử mà xấu, không có tinh thần yêu nước thì khó mà thực hiện được cuộc Cách mạng vùng lên trong Tết Mậu Thân. Nói như vậy để thấy Phật giáo luôn luôn gắn liền với Cách mạng. Vì gắn liền với Cách mạng cho nên khi nghe đến giải phóng chổ nào thì người Phật giáo hoan nghênh lắm! Mà nhất là khi nghe giải phóng đến Sài Gòn thì họ phấn khởi vô cùng, hoan nghênh hết sức!

Từ đó cán bộ, bộ đội về khắp nông thôn cho đến nơi thành thị. Ở đâu có bóng anh em cán bộ, bộ đội thì đồng bào Phật tử hết sức hoan nghênh, vui vẻ. Ra đón chào, người thì bắt tay, vuốt vai, cầm áo, rất hoan nghênh, cứ ngó mãi, cười mãi. Họ nhìn như là anh em, con cháu, chú bác của họ đi xa làm nghĩa vụ thành công về. Từ đó có gì họ cũng đem ra mời ăn. Thành ra đoàn kết mà thương yêu nữa. Chẳng những thương yêu, mà còn kính nể, kính trọng nữa. Bởi họ thấy anh em là những người có công với Cách mạng, có công trong cuộc kháng chiến, là người nếm mật nằm gai, đem lại độc lập hòa bình ngày hôm nay.

Nhưng mà thưa với quý vị, cái tình đoàn kết đó, thương yêu đó, kính trọng đó chỉ có được 10 ngày thôi. Sau 10 ngày đó thì nó gạt đi đâu hết. Lòng thương yêu đó, sau đó là ghét cay ghét đắng. Lòng kính trọng thành ra khinh đáo để, tại sao vậy? Rất dễ hiểu thôi: Anh em cán bộ, bộ đội về từ thành thị đến nông thôn. Về đạo khác thì không biết, chứ về đạo Phật, các nhà chùa, nhất là những chổ tu học đông, thì anh em nói thế này: Trước kia tu phải rồi, nhưng còn bây giờ hòa bình độc lập rồi tu làm gì nữa. Các người đi về đi, lo tự lực mà sống thì hơn. Chứ chùa là gì? Chùa là xương máu của đồng bào. Rồi đây trước sau gì người ta cũng lấy thôi. Bởi của đồng bào thì lấy để làm công việc cho đồng bào. Khi đó các người cũng sẽ về. Trước sau cũng về thì về trước tốt hơn.

Thêm nữa, các người theo đạo Phật thì thử hỏi, Đạo Phật ra đời gần 3000 năm nay, họ có đem gì làm lợi ích cho nhân dân chưa? Mà Cách mạng ta làm thành tựu như vậy đó, đem lại hòa bình dân tộc. Như vậy là tôn thờ Cách mạng hơn là thờ Phật.

Bắt đầu từ đó thì tình đoàn kết, thương yêu kính trọng anh em còn phân nửa thôi. Còn phân nửa rồi sẽ hết, mà còn thâm nữa.

Tiếp theo sự vận động, các anh em lại còn khủng bố các chùa, nhục mạ những nơi Phật đường, không cho họ đến làm lễ, nói những lời khiếm nhã. Tiếp theo, các anh em phá hủy tượng Phật lộ thiên (như tôi đã nói khi nãy), bắt bớ, giam cầm nhiều người.

Sau đấy [các anh em] còn bắt các vị tu sĩ đại diện các tỉnh. Thí dụ, đưa các vị đó biên bản, bảo ký vô. Trong biên bản đại ý là:"Giảng đường của chùa thì chúng tôi bằng lòng để cho Ủy Ban sử dụng."

Đại diện chùa nói: Chúng tôi không thể ký được vì chúng tôi chỉ có nhiệm vụ giữ gìn, không giao cho ai được vì đây là tài sản của Viện Hóa Đạo. Nếu có sự ủy thác, giấy tờ của Viện Hóa Đạo, thì chúng tôi sẵn sàng giao. Ở đây chưa có mà chúng tôi giao thì chúng tôi có lỗi.

Họ nói rất có lý. Nhưng rồi các ông đó bị bắt. [Các anh em] không lấy lý do đó mà lấy lý do "mấy ông sư đó phản động, theo CIA, theo Mỹ, theo ngụy" vv...

Rồi lần lượt bắt các vị trong Viện Hóa Đạo nữa, bắt Thiện Minh, để Thích Thiện Minh chết...

Thưa quý vị, Quý vị biết tôi là người trong Viện Hóa Đạo... Tôi không thể ngồi trên hai cơ quan tối cao của nhà nước mà nhìn Phật giáo chúng tôi... [Bản gốc ngừng ngang đây...]

Thay Lời Kết

Khối Kỹ Thuật, UBTTTADCSVN, vừa hoàn tất tất cả 5 phần tài liệu được ghi chép từ audio tự thuật và tự thú của Thích Đôn Hậu. Tài liệu này bao gồm những dữ kiện quan trọng (hầu hết đã được nêu trong sách Biến Động Miền Trung) để từ nay sự thật lịch sử không thể bị chối bỏ hay tẩy xóa. Qua tài liệu Audio Thích Đôn Hậu Tự Thuật này:

- GHPGVNTN đã đồng hành Cộng sản trong việc lật đổ hai chính thể Đệ I và Đệ II VNCH.

- GHPGVNTN đã tiếp tay cho Cộng sản trong cuộc thảm sát đồng bào Huế Mậu Thân 1968.

- GHPGVNTN đã đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống để đầu hàng CS 1975.

- Đương sự xác nhận bản thân đã tự nguyện đi theo Cộng sản và nằm trong vị trí cao cấp của Trung Ương Đảng CSVN. Đương sự xác nhận đã giữ chức Phó Chủ Tịch Trung Ương Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ, và Hòa Bình Việt Nam.

- Đương sự hoàn toàn không hề bị ai bắt cóc ra Bắc năm 1968. Ra Bắc 1968, đương sự trực tiếp gặp Hồ Chí Minh và theo lời đương sự kể, 'Hồ Chủ tịch tán dương cuộc tranh đấu của Phật giáo là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc bị  thiêu của sư Quảng Đức'.

-----

[1] Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch LMLLDTDCHBVN (20/05/1968) in Huế: Passé et Présent: Etudes vietnamiennes No 37, 1973, p.235-237: “Pourquoi j’ai adhéré à l’Alliance des Forces nationales démocratiques et de Paix du Viêt Nam”.

[2] Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976.  http://youtu.be/2xO--Ucc9nA

[3] Phát biểu tại chùa Linh Mụ 08-12-1978 (phút 1:19:40).  http://youtu.be/2xO--Ucc9nA­

[4] Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976.  http://youtu.be/2xO--Ucc9nA

[5] Định phang ghế ngồi vào Võ Nguyên Giáp. (199-). http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=14m6s

[6] Bổ túc về Lời tuyên bố của Dương Văn Minh. (199-). http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=46m45s

[7] Thừa nhận mình đã tham gia Cách Mạng. (199-). http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=49m12s

[8] Tự thú PGVNTN đã đồng hành cùng CS tấn công Huế, Tết Mậu Thân 68. (199-). http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=1h12m32s

http://ubtttadcsvn.com/p169a206/su-that-ve-ten-viet-cong-diep-truong-thuan-tuc-thich-don-hau-de-iii-tang-thong-phat-giao-vntn

 


 

Thư-Viện Bồ Đề Online @ Trúc-Lâm Yên-Tử 

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters
un compteur pour votre site